Nói đến Nguyễn Trung Trực, sử sách thường nhắc đến chiến công vang dội tại vàm sông Nhựt Tảo năm 1861. Ông cùng nghĩa quân, chỉ với khí giới thô sơ, đã mưu trí tiêu diệt tàu chiến Espérance của Pháp.
Tuy nhiên, các sử liệu ghi chép về ông không nhiều, phần lớn thông tin được sưu tầm từ các nguồn tài liệu dân gian, hoặc một số ghi chép của người Pháp. Chưa có bài khai thác thông tin liên quan vị anh hùng chống Pháp này từ văn thư của triều đình (Châu bản triều Nguyễn).
Nơi thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá - Kiên Giang. Ảnh Nguyễn Thanh Thuận. |
"Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây"
Nguyễn Trung Trực, tên khai sinh là Nguyễn Văn Lịch, sinh quán tại xóm Nghề (nay là xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Tương truyền, lúc nhỏ, ông theo học võ ở vùng kinh Bảo Định. Là người chất phác, ông được thầy dạy võ đặt tên Chơn. Ông rất giỏi võ, lại thường xuyên giao du rộng rãi với hào kiệt trong vùng nên sớm có uy tín.
Năm 1860, Nguyễn Trung Trực tham gia đạo binh đồn điền của Trương Định với chức Cai đội, góp phần chống giữ đại đồn Chí Hòa khi người Pháp xâm lược.
Ngày 24/2/1861, Chí Hòa thất thủ, Trương Định lui về Gò Công, Nguyễn Trung Trực về Tân An. Lúc này, Nguyễn Trung Trực giữ chức quyền sung Quản binh đạo, gọi tắt là Quản binh nên còn gọi là Quản Lịch hay Quản Chơn.
Ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân, đánh chìm tàu Espérance của Pháp. Sau đó, ông được triều đình thưởng cho chức Quản cơ.
Sau khi Biên Hòa, Gia Định, Định Tường rơi vào tay Pháp, Nguyễn Trung Trực ra Bình Định nhậm chức Lãnh binh đầu năm 1867. Đến giữa năm 1867, ông được phong chức Thành thủ úy Hà Tiên. Ông chưa kịp đến nơi, thực dân Pháp đã chiếm Hà Tiên, nên phải lui về Hòn Chông lập căn cứ chống Pháp.
Sau đó, lực lượng Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở vùng Bảy Núi. Bị quân Pháp tấn công, ông lui ra đảo Phú Quốc. Giặc lại bao vây Phú Quốc, nghĩa quân rút lên núi, Huỳnh Công Tấn ra sức khủng bố dân làng nhằm gây sức ép với nghĩa quân.
Nguyễn Trung Trực rơi vào thế khó khăn: Vợ mới sinh, phải chạy giặc nên suy kiệt rồi mất, nghĩa quân cạn lương thực, nước uống và đạn dược, dân làng lại bị vạ lây. Nguyễn Trung Trực quyết định đầu hàng ngày 19/9/1868.
Mặc cho Đề đốc Ohier ra sức chiêu dụ, Nguyễn Trung Trực khẳng khái chối từ để nhận án tử tại Rạch Giá ngày 27/10/1868 (nhằm ngày 12/9 năm Mậu thìn), để lại câu nói bất hủ: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.
Giữ nghĩa quên thân
Từ sau khi Nguyễn Trung Trực tử tiết, vua Tự Đức đã bí mật cho người đi dò la để nắm rõ sự tình nhằm đền báo tri ân ông. Châu bản Tự Đức tập 383, tờ 72 ngày 6 tháng 2 năm Tự Đức thứ 24 (26/3/1871) ghi:
“Viện Cơ mật trích tư: Ngày tháng 12 năm ngoái, bổn viện có làm tờ phiến đem mật tư của quý chức cùng các tờ bẩm trình tình hình thám báo tất cả là 8 bản trang, căn cứ hồi báo của Huỳnh Phục Thái về sự trạng tử tiết của Hồ Huân Nghiệp và Nguyễn Trung Trực kính trình lên.
Vâng được Châu phê: Cứu xét lại cho rõ ràng, 2 viên ấy sự trạng thế nào, xuất thân là gì, từng làm quan chưa, theo người nào, làm việc gì, chết ngày nào, có thể biết rõ ràng được không, đều phúc trình lên.
Vậy xin trích tư cho quan Điển nông sứ tỉnh Khánh Hoà Phan quý chức [Phan Trung] tuân theo thực hiện”.
Châu bản Tự Đức tập 383, tờ 72 ngày 6 tháng 2 năm Tự Đức thứ 24 (26/3/1871). Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc I. |
Châu bản Tự Đức tập 364, tờ 6 ngày 14 tháng 5 năm Tự Đức thứ 24 (1/7/1871) ghi:
“Chúng thần viện Cơ mật tâu: Ngày tháng 12 năm ngoái, nhận được phiến tấu của quan Điển Nông sứ Phan Trung, căn cứ Huỳnh Phục Thái thám báo gửi về sự trạng tử tiết của Hồ Huân Nghiệp và Nguyễn Trung Trực, đã tâu trình đầy đủ lên.
Vâng được châu phê: Xem xét lại cho rõ đầu đuôi sự trạng của 2 viên đó, xuất thân từ đâu, từng làm quan chưa, theo người nào, làm việc gì, chết ngày nào mới có thể biết xứng đáng hay không, rồi tâu hết lên.
Chúng thần đã lục giao thực hiện. Nay nhận được tờ phúc của viên đó nói rằng, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Trung Trực làm gì, chết ngày nào, thì hỏi các người Trung Nam đến nói không biết rõ. Xin chờ viên đó phái người do thám cho rõ xin sẽ phúc đáp”.
Châu bản Tự Đức tập 233, tờ 218 ngày 19 tháng 12 năm Tự Đức thứ 23 (8/02/1871) ghi:
“Chúng thần Viện Cơ mật tâu: Ngày mùng 9 tháng này nhận được mật tư của Điển nông sứ Phan Trung đính kèm 8 trang bẩm báo về tình hình do thám….
... Lại căn cứ Nguyễn Hữu Huân kể lại Hồ Huân Nghiệp cùng quan Tây tranh luận, Nguyễn Văn Kiểng bí mật ghi chép Nguyễn Trung Trực và Trần Văn Diệu, Lâm Ky, Dương Thuyên, Nguyễn Văn Điền.
Tất cả họ đều tử tiết, sự trạng đều giữ nghĩa quyên thân, thật đáng thương xót! Tháng 8 năm nay, thần viện biết tin kính theo lời phê làm lễ tế những người Nam Trung tuẫn nghĩa, tưởng cũng phần nào an ủi.
Lại kính phụng châu phê, trong đó có khoản chờ khi có cơ hội tra cứu truy lục lại đầy đủ báo đền hậu đãi. Khâm thử”.