Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Não của người đàn ông bị 'mất bộ nhớ'

Khi một bác sĩ chuyên khoa khám cho ông, sau đó rời khỏi phòng và quay lại chỉ sau vài phút, H. M. không thể nhớ là mình đã gặp bác sĩ.

Câu chuyện của H. M.

Ca bệnh điển hình nhất của trường hợp nói trên là H. M., một bệnh nhân động kinh khoảng hai mươi đến ba mươi tuổi, được Scoville phẫu thuật sau đó trở thành một đối tượng nghiên cứu dài hạn. Kết quả của nghiên cứu này đóng góp to lớn vào học thuyết hiện đại về chứng mất trí nhớ, trí nhớ, não và tâm trí.

Hai mươi tháng sau khi phẫu thuật, chứng giảm trí nhớ của H. M. ngày càng rõ ràng. Khi một bác sĩ chuyên khoa khám cho ông, sau đó rời khỏi phòng và quay lại chỉ sau vài phút, H. M. không thể nhớ là mình đã gặp bác sĩ. Đó không phải chỉ là một sự cố cá biệt mà tiếp tục tái diễn trong 40 năm tiếp theo. H. M. không thể nhớ bất kỳ thông tin mới nào. Ông bị chứng gọi là mất trí nhớ thuận chiều – nói cách khác, ông không thể nhớ bất kỳ cái gì xảy ra với mình sau khi não bị tổn thương do phẫu thuật.

Tri nho anh 1

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Shutterstock.

Tuy nhiên không phải tất cả bộ nhớ của ông đều biến mất. H. M. có thể nhớ lại những chuyện xảy ra trước khi được phẫu thuật (gọi là bộ nhớ sự kiện), và ông vẫn biết nhiều thứ mà người bình thường cần biết (gọi là bộ nhớ ngữ nghĩa). Tuy nhiên ông không thể có được trí nhớ sự kiện hay ngữ nghĩa mới. H. M. dường như sống trong quá khứ. Hay có phải như vậy không?

Một số nhà khoa học gọi cái tạo thành từ kết hợp trí nhớ sự kiện và trí nhớ ngữ nghĩa là trí nhớ rõ ràng vì chúng là những loại ký ức mà chúng ta biết là chúng ta có. Còn có một loại trí nhớ khác, loại mà chúng ta không biết chúng ta có, được gọi là trí nhớ mặc nhiên hay trí nhớ tiềm ẩn. Chúng gồm trí nhớ về kỹ năng hay trí nhớ thường trực (ví dụ lái xe), phản xạ có điều kiện (ví dụ chảy nước miếng khi nghe chuông báo giờ ăn, giống như thí nghiệm con chó của Pavlov), và trí nhớ mồi (ví dụ nhận ra từ “chó” nhanh hơn khi từ đi trước là “mèo” so với khi từ đi trước là “xe”).

Vào một mùa đông H. M. ngã trên băng và bị rạn xương chậu. Sau khi phục hồi, ông trở nên rất thành thạo trong việc tháo và gấp xe tập đi (một dạng trí nhớ kỹ năng), nhưng ông không thể nhớ là mình đang bị chấn thương nên phải dùng nó (trường hợp này là một trí nhớ sự kiện). Vậy là trí nhớ mặc nhiên của ông tương đối lành lặn.

Giác quan

Nhà triết học người Hy Lạp Aristotle (384-322 TCN) mô tả năm giác quan của con người – nghe, ngửi, sờ, nếm và nhìn – như năm cửa sổ để não nhận biết. Cửa sổ thì cho phép thông tin đi vào nhưng không phân tích nó.

Giác quan khác với cửa sổ bình thường ở chỗ chúng chuyển đổi bất kỳ cái gì xảy ra bên ngoài thế giới kia, ví dụ tiếng hô to hay sự giảm nhiệt độ thành tín hiệu thần kinh mà não có thể hiểu – những tín hiệu mà não có thể nhận biết.

Cũng không như cửa sổ thường, không phải cái gì cũng được giác quan cho đi qua. Chỉ một phần nhỏ của tất cả những tín hiệu đang hiện hữu tạo ra tín hiệu mà bộ não dịch nghĩa được. Nếu không phải như vậy thì chúng ta sẽ bị vùi lấp bởi nhận thức thường trực về mớ âm thanh, hình ảnh, mùi, vị và các cảm quan khác vây quanh chúng ta hàng ngày hàng giờ. Chúng ta chỉ để ý đến một vài tín hiệu trong số rất nhiều tín hiệu - mọi thứ còn lại bị phớt lờ, giống như cách chúng ta không để ý đến âm nền rè của radio.

Khi giao tiếp bằng radio, sự khác biệt giữa một tín hiệu và tạp âm rất rõ ràng: tín hiệu chính là thông điệp; tạp âm là những âm đều đều, hoặc có lẽ là thông điệp không quan trọng, chẳng qua tình cờ được phát cùng tần số. Tương tự, trong hệ thần kinh của chúng ta tín hiệu là hoạt động thần kinh mà chúng ta đang để ý đến. Ví dụ khi bạn đang đọc trang sách này thì những từ bạn đọc là tín hiệu; âm thanh của những người xung quanh nói chuyện, hay cảm giác đói bụng – đều có thể xem là “tạp âm”.

• Tri giác là sự chuyển nghĩa các cảm giác do não thực hiện. • Đôi mắt là cảm quan phức tạp nhất kết nối thế giới bên ngoài với não. Khoảng 40 phần trăm tế bào đi vào não là đến từ mắt.

• Trong số tất cả các giác quan, nghe được xem là quan trọng nhất cho hoạt động giao tiếp cốt lõi.

• Xúc giác, vị giác và khứu giác đều là những giác quan rất phát triển. Mỗi giác quan này có mạng lưới thần kinh phức tạp nối cơ thể, lưỡi và mũi với não.

• Các nhà khoa học ngày nay nghiên cứu hoạt động của não liên quan đến tri giác.

• Vị giác và khứu giác đôi khi cũng được gọi là giác quan hóa học, và cảm giác về cơ thể cũng được gọi là bản thể quan.

Nhiều tác giả/ NXB Trẻ

Bình luận

SÁCH HAY