Từ năm 1901, Quỹ Nobel đã trao các giải thưởng cho những thành tựu đột phá trong vật lý, y học và hóa học (ngoài các giải thưởng về hòa bình, văn học và nghiên cứu kinh tế). Ảnh: New York Times. |
Giải Nobel thường được xem là đỉnh cao của thành tựu khoa học, vinh danh những cá nhân có đóng góp vượt trội cho tiến bộ của nhân loại. Nhưng liệu có một công thức chung nào để đạt được thành tựu lớn lao này? Câu hỏi này chưa bao giờ ngừng gây tò mò.
Một nghiên cứu gần đây của tạp chí khoa học Nature đã phân tích dữ liệu về các giải thưởng Nobel trong 3 lĩnh vực chính - hóa học, vật lý và sinh lý học hoặc y học - từ năm 1901 đến nay, nhằm tìm ra các đặc điểm phổ biến giữa những người đoạt giải.
Độ tuổi vàng để đoạt giải Nobel
Dựa trên dữ liệu của hơn 640 người đoạt giải Nobel, độ tuổi trung bình khi giành được giải là 58, nhưng 54 mới là "con số vàng". Đã có 24 nhà khoa học nhận giải ở tuổi này, theo dữ liệu của Nature.
Tuy nhiên, không phải lúc nào điều này cũng đúng. Người trẻ nhất từng giành giải Nobel là Lawrence Bragg. Ông chỉ mới 25 tuổi khi cùng cha mình nhận giải Nobel Vật lý năm 1915 nhờ công trình phân tích cấu trúc tinh thể bằng tia X. Ngược lại, John B. Goodenough giành giải Nobel Hóa học năm 2019 ở tuổi 97 nhờ công trình phát triển pin lithium-ion. Ông trở thành người lớn tuổi nhất từng nhận giải thưởng này.
Nhưng tuổi tác không phải là tất cả. Dữ liệu còn cho thấy trung bình, các nhà khoa học phải chờ khoảng 20 năm từ khi hoàn thành công trình nghiên cứu xuất sắc của họ cho đến khi được trao giải Nobel.
Đều này có nghĩa là nếu bạn muốn giành giải, bạn nên bắt đầu nghiên cứu của mình vào độ tuổi 40 hoặc sớm hơn. Khoảng thời gian chờ này cũng đang có xu hướng kéo dài hơn. Trước năm 1960, những người đoạt giải đợi khoảng 14 năm kể từ khi hoàn thành công trình. Nhưng từ năm 2010 trở đi, con số này đã tăng lên 29 năm.
Cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama tại lễ trao giải Nobel hòa bình. Ánh: Allover Norway. |
Bên cạnh đó, giải Nobel không được trao sau khi người được đề cử đã qua đời. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà khoa học phải đợi trong khi vẫn tiếp tục cống hiến cho khoa học và giữ sức khỏe để có thể nhận giải.
Theo Nature, giải Nobel từ trước đến nay vẫn chủ yếu dành cho nam giới. Dữ liệu từ nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nam giới nhận giải cao hơn rất nhiều so với nữ giới. Hơn 90% giải Nobel khoa học được trao cho nam giới. Trong suốt thế kỷ 20, chỉ có 11 phụ nữ được trao giải Nobel khoa học.
Tuy nhiên, khoảng cách này đang dần được thu hẹp. Từ năm 2000 đến nay, đã có thêm 15 phụ nữ giành giải. Điều này cho thấy cơ hội dành cho nữ giới trong lĩnh vực khoa học đang ngày càng tăng. Theo Nature, nếu bạn là nhà khoa học nữ và muốn tăng cơ hội chiến thắng, sinh lý học hoặc y học là lĩnh vực có tỷ lệ nữ giới nhận giải Nobel cao nhất.
Một yếu tố không kém phần quan trọng là vị trí địa lý của người giành giải Nobel. Hơn 54% giải Nobel được trao cho những nhà khoa học làm việc ở Bắc Mỹ. Châu Âu cũng là một khu vực có tỷ lệ đoạt giải cao, đặc biệt là trong những thập kỷ đầu của giải thưởng.
Những nhà khoa học đến từ các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình thấp rất ít khi giành được giải Nobel. Chỉ có 10 người từ các quốc gia này nhận giải. Hầu hết họ đều đã di cư đến những trung tâm khoa học hàng đầu như Mỹ hoặc các nước Tây Âu để phát triển sự nghiệp.
Lĩnh vực nghiên cứu nào có khả năng đoạt giải cao nhất
Một yếu tố khác góp phần vào việc giành giải Nobel là làm việc cùng hoặc dưới sự dẫn dắt của những người đã giành giải hoặc sẽ giành giải trong tương lai. Theo Nature, nhiều người chiến thắng giải Nobel từng là học trò của các nhà khoa học từng giành giải hoặc thuộc về một "gia đình học thuật" nổi tiếng với những thành tựu vượt trội.
Các nghiên cứu cho thấy các nhà khoa học Nobel thường có mạng lưới mentor - mentee (người cố vấn - người được cố vấn), thường xuyên trao đổi với nhau. Các giải thưởng thường "sinh sôi" từ những mối quan hệ này.
Điều gì khiến những người đoạt giải Nobel khác biệt với các nhà nghiên cứu khác? Có công thức chiến thắng nào không? Ảnh: BITM. |
Một ví dụ nổi bật là nhà vật lý John W. Strutt, người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1904. Ông có tới 228 "hậu duệ" học thuật là những người từng giành giải Nobel. Trong số đó, Joseph Thomson, học trò của Strutt, đã đào tạo 9 người giành giải Nobel Vật lý và 2 người trong lĩnh vực hóa học, bao gồm cả con trai của ông, George Paget Thomson.
Theo Nature, một số lĩnh vực nghiên cứu có tỷ lệ nhận được giải Nobel nhiều hơn những lĩnh vực khác. Căn cứ từ 69 giải Nobel khoa học được trao từ năm 1995-2017, các lĩnh vực như vật lý hạt, sinh học tế bào, hóa sinh phân tử và quang học đã chiếm hơn một nửa số giải thưởng. Đặc biệt, vật lý hạt và sinh học tế bào là những lĩnh vực có tỷ lệ thành công cao nhất.
Khi được hỏi về số liệu thống kê, đại diện từ các ủy ban trao giải Nobel về khoa học nói với Nature rằng bất kỳ xu hướng nào cũng có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Các thành viên ủy ban “liên tục nỗ lực cải thiện quy trình đề cử, nhằm mở rộng đề cử liên quan đến giới tính, quốc tịch và các chủ đề trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, sinh lý học hoặc y học”.
Những nhà khoa học tiên phong
"Những nhà khoa học tiên phong" là một cuốn sách thú vị về lịch sử của những phát minh nổi tiếng. Để có được những đóng góp vĩ đại cho nhân loại, các nhà khoa học nổi tiếng đã làm việc với lòng say mê và tinh thần học hỏi không ngừng.