Hình ảnh Văn Miếu nhìn từ trên cao. Ảnh: Hoàng Hà. |
Hội thảo khoa học “Phát huy các giá trị và nguồn lực văn hóa xây dựng Thủ đô Văn hiến - Văn minh - Hiện đại” do Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, Sở Văn hóa và Thể thao thực hiện. Zing News giới thiệu tham luận "Bảo tồn di sản văn hóa ở Hà Nội: Những vấn đề đặt ra" của PGS.TS Đặng Văn Bài.
1. Tạo lập sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
Lâu nay, trong giới nghiên cứu vẫn còn tồn tại các luồng ý kiến trái chiều là: Bảo tồn để phát triển hay phát triển để bảo tồn? Phát triển trước hay bảo tồn là tiền đề cho phát triển?
Tuy nhiên, thực tế cho thấy phát triển bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở khai thác và sử dụng hợp lý các loại tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tài nguyên thiên nhiên là “những của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến, sử dụng, phục vụ cuộc sống của con người (rừng cây, các động vật, thực vật quý hiếm, các mỏ khoáng sản, các nguồn nước, dầu khí…). Tài nguyên thiên nhiên là một bộ phận thiết yếu của môi trường, có quan hệ chặt chẽ với môi trường”.
Tài nguyên nhân văn là những của cải vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra từ hàng nghìn năm nay để phục vụ cuộc sống của con người cũng như hưởng thụ các giá trị tinh thần/văn hóa được tích hợp trong tài nguyên nhân văn. Tài nguyên nhân văn bao gồm: các di tích lịch sử - văn hóa, các công trình kiến trúc, các bảo tàng, thư viện, các công viên - vườn tượng, các làng nghề truyền thống, các lễ hội truyền thống, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, ẩm thực…
Tuy nhiên về bản chất, tài nguyên nhân văn lại chứa đựng hạt nhân cốt lõi mang tính quyết định chất lượng tài nguyên, là nguồn nhân lực có chất lượng/hàm lượng trí tuệ cao. Con người là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ giá trị của tài nguyên nhân văn.
Di sản văn hóa được định nghĩa là “sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Định nghĩa di sản văn hóa cho thấy chỉ những gì do con người sáng tạo ra, có giá trị, được chắt lọc qua nhiều thế hệ trở thành tinh hóa văn hóa mới được thừa nhận là Di sản văn hóa - Bộ phận cấu thành quan trọng của tài nguyên nhân văn.
Tài nguyên du lịch là “Cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch/khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch.
Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa”. Theo định nghĩa này, tài nguyên du lịch mang tính hỗn hợp giữa thiên nhiên và văn hóa, trong đó nổi bật nhất là loại hình danh lam thắng cảnh/hợp thể thiên nhiên và nhân tạo.
Ta biết rõ, tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa có đặc trưng là tính giới hạn, không thể tái sinh/tái tạo, nếu không được khai thác hợp lý có khả năng sẽ bị cạn kiệt hoặc suy thoái nghiêm trọng.
Vậy, muốn phát triển bền vững phải bảo tồn tài nguyên (thiên nhiên và nhân văn). Bảo tồn phải đi trước một bước hoặc chí ít cũng song song với phát triển. Do đó, xu hướng chung sẽ là “Bảo tồn để phát triển” hay “Bảo tồn phải phục vụ cho các mục tiêu phát triển”.
Bảo tồn di sản văn hóa để phát triển được hiểu theo nghĩa:
- Bảo tồn để tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh cho phát triển.
- Bảo tồn góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng trí tuệ cho phát triển.
- Bảo tồn nhằm cung cấp nguồn thông tin chân thực có chất lượng trí tuệ tạo cơ sở sáng tạo các giá trị văn hóa mới.
- Bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên với tư cách là nguồn tài nguyên cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong đó có du lịch bền vững.
Phát triển là nhằm tạo ra nguồn lực đầu tư trở lại để bảo tồn di sản văn hóa và phát triển toàn diện con người Việt Nam như:
- Phát triển tạo điều kiện thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
- Phát triển để tạo cơ hội phát huy năng lực sáng tạo của con người.
- Phát triển tạo ra sức mạnh nội lực (vật chất và tinh thần) để bảo vệ lợi ích cốt lõi của quốc gia là: Độc lập dân tộc - chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia - thống nhất đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Từ những điều trình bày ở trên có thể khẳng định, chúng ta không thể hy sinh môi trường (tài nguyên thiên nhiên) và di sản văn hóa vì các mục tiêu phát triển kinh tế ngắn hạn. Ngược lại, phải ưu tiên bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa (trong đó có di sản văn hóa) vì mục tiêu phát triển bền vững hay sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển.
2. Bảo tồn di sản văn hóa phục vụ chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa ở Thủ đô Hà Nội
Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra 12 định hướng lớn để phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, trong đó định hướng thứ 4 về phát triển văn hóa ghi rõ “phát triển con người toàn diện và xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực quan trọng nhất của đất nước”.
Theo tôi, đây là định hướng chiến lược quan trọng mà thành phố Hà Nội cần quán triệt để phát triển ngành công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô.
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 của Chính phủ đã xác định 4 mục tiêu chung nhất trong đó mục tiêu thứ ba nói rõ “Hoàn thiện cơ thể thị trường trong lĩnh vực văn hóa gắn với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng lợi thế”.
Theo UNESCO, “Công nghiệp văn hóa (CNVH) là những ngành sản xuất ra những sản phẩm hữu hình và vô hình mang tính nghệ thuật, sáng tạo và có tiềm năng tạo ra thu nhập, của cải thông qua việc khai thác các tài sản văn hóa, sản xuất hàng hóa, dịch vụ dựa trên tri thức (cả truyền thống và đương đại).
Các lĩnh vực thuộc CNVH có điểm chung là đều vận dụng tính sáng tạo, tri thức văn hóa và sở hữu trí tuệ để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ với ý nghĩa văn hóa, xã hội”.
Đồng thời UNESCO cũng đưa ra quan niệm “Công nghiệp văn hóa” là một thuật ngữ chỉ các ngành công nghiệp mà có sự kết hợp giữa sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và văn hóa.
Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định rõ mục tiêu phát triển ngành CNVH “trở thành những ngành dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ và tiêu dùng văn hóa của Nhân dân trong nước và xuất khẩu, góp phần quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam”.
Chiến lược phát triển ngành CNVH cũng nhằm đáp ứng những quyền văn hóa của con người: (1) tiếp cận và hưởng thụ các giá trị văn hóa, (2) tham gia các hoạt động sáng tạo văn hóa, (3) sử dụng các thiết chế văn hóa, (4) tham gia, đối thoại, ra quyết định lựa chọn các giá trị văn hóa cần được ưu tiên cũng như các giải pháp bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa phục vụ nhu cầu phát triển bền vững.
Chúng ta thấy có 13 lĩnh vực liên quan tới CNVH là: quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, truyền hình và phát thanh và cuối cùng là du lịch.
Ở đây chúng ta chỉ bàn tới lĩnh vực hẹp là du lịch văn hóa một trong những ngành CNVH mà Việt Nam có lợi thế và tiềm năng phát triển. Đồng thời trong các loại tài nguyên du lịch, tập trung vào hai loại hình quan trọng là bảo tàng và di sản văn hóa.
Một trong 5 nguyên tắc phát triển du lịch có nhấn mạnh “phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường liên kết vùng”.
Tuy nhiên cần hiểu rõ, di sản văn hóa, bảo tàng và các giá trị văn hóa chỉ tồn tại dưới dạng tài nguyên du lịch, tự thân chúng chưa phải là sản phẩm văn hóa/loại hàng hóa đặc thù. Ngành CNVH du lịch phải sáng tạo hay sản xuất ra các loại hình dịch vụ văn hóa hay gọi là dịch vụ du lịch kết hợp với tài nguyên du lịch để trở thành loại hàng hóa văn hóa đặc biệt.
Đây là loại sản phẩm/hàng hóa mang “giá trị kép” vừa văn hóa, vừa kinh tế. Sản phẩm du lịch được coi là loại hàng hóa đặc biệt vì người mua sản phẩm du lịch chỉ được hưởng thụ giá trị văn hóa, được trải nghiệm văn hóa mà không có quyền sở hữu sản phẩm du lịch mà mình đã mua.
Mặt khác, tính chất đặc biệt của loại hàng hóa này còn thể hiện ở chỗ nó được bán cùng một lúc cho nhiều người và bán được nhiều lần. Sản phẩm du lịch hay sản phẩm của ngành CNVH là rất đa dạng và phong phú bởi vì người sản xuất trên cơ sở cùng một loại tài nguyên du lịch, nếu có thể sáng tạo nhiều loại hình du lịch văn hóa tức là đã tạo ra được nhiều loại hàng hóa/sản phẩm du lịch khác nhau.
CNVH hay du lịch văn hóa phải được thừa nhận là một ngành kinh tế độc lập trong lĩnh vực văn hóa. Và do đó, ngành Di sản văn hóa (DSVH) và ngành Du lịch có tính nguyên hợp, tuy hai mà cũng là một, gắn bó hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Vậy nguồn thu từ du lịch/CNVH phải được tái đầu tư trở lại cho việc bảo tồn DSVH (tài nguyên du lịch) một cách tương xứng với mục tiêu duy trì và gia tăng nguồn vốn cho phát triển du lịch.
Cuối cùng, CNVH là ngành kinh tế mũi nhọn trong lĩnh vực văn hóa cần có cơ chế đặc thù và đồng bộ để kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được vận hành một cách có hiệu quả cao nhất. Tôi cho rằng cần có chính sách ưu đãi cho kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển theo đúng các quy định của pháp luật.
Từ thực tiễn, tôi kiến nghị Thành phố cần quan tâm xây dựng cơ chế đặc thù để:
- Phát triển mạng lưới bảo tàng ngoài công lập với tư cách là một loại tài nguyên du lịch có tiềm năng.
- Nghiên cứu và thể nghiệm mô hình hợp tác công - tư trong hoạt động bảo tồn DSVH gắn với phát triển du lịch bền vững.
- Tăng cường đầu tư cho hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DSVH trên địa bàn thành phố.
- Đào tạo, nâng cao năng lực cho bộ máy quản lý di sản văn hóa và du lịch của thành phố để tạo cơ hội thuận lợi nhất cho phát triển CNVH.
- mũi nhọn kinh tế mà Hà Nội có nhiều lợi thế và tiềm năng so với các địa phương khác trong cả nước.
- Ưu tiên phát triển hình thức du lịch cộng đồng để bảo tồn DSVH tại cộng đồng, tạo sinh kế cho cộng đồng thông qua các dịch vụ văn hóa do cộng đồng tự sáng tạo và quản lý.