|
|
Một bệnh nhi suy gan được phẫu thuật ghép gan từ mẹ. Ảnh: Duy Hiệu. |
Ngày 11/12, Bệnh viện Nhi đồng 2 tổ chức Hội nghị Ghép tạng nhi lần thứ 4, đánh dấu hành trình 21 năm kể từ ca ghép thận đầu tiên được thực hiện tại bệnh viện vào tháng 6/2004.
Từ cột mốc này, bệnh viện trở thành một trong những trung tâm ghép tạng nhi khoa chủ lực của cả nước, với hơn 80 ca ghép gan và thận, mở ra cơ hội sống cho hàng chục trẻ mắc bệnh nặng.
Chặng đường hơn 20 năm bền bỉ
Tại hội nghị, PGS.TS Phạm Ngọc Thạch, Phó giám đốc bệnh viện, nhắc lại cột mốc quan trọng là ca ghép thận đầu tiên diễn ra tháng 6/2004, đánh dấu sự ra đời chính thức của chương trình ghép thận trẻ em tại bệnh viện. Ca ghép mở ra giai đoạn phát triển liên tục và bền vững của lĩnh vực ghép tạng nhi ở phía Nam.
Bác sĩ Thạch gửi lời tri ân đến các đối tác quốc tế cùng các thầy từ những bệnh viện đầu ngành Việt Nam, những người đã đóng vai trò nền tảng giúp bệnh viện xây dựng kỹ thuật ghép thận trẻ em trong giai đoạn đầu.
"Đó là sự hỗ trợ vô giá, giúp chúng tôi đi những bước vững chắc như hiện nay", bác sĩ Thạch nói.
Theo bác sĩ Thạch, bệnh thận mạn ở trẻ em có xu hướng gia tăng với tỷ lệ khoảng 18 trẻ/1 triệu trẻ phát hiện mới mỗi năm, trong đó 20% diễn tiến đến giai đoạn cuối. Khi đó, ba phương pháp điều trị thay thế gồm ghép thận, thẩm phân phúc mạc và chạy thận nhân tạo đều cần được tính đến.
Nhi đồng 2 triển khai chạy thận nhân tạo từ năm 1999, đến 2004 thực hiện ghép thận và năm 2010 chính thức vận hành chương trình thẩm phân phúc mạc.
|
| Ê-kíp phẫu thuật Bệnh viện Nhi đồng 2 bền bỉ suốt 2 thập kỷ trong hành trình ghép tạng nhi. Ảnh: Duy Hiệu. |
Hiện, khoa Thận - Tiết niệu và đơn vị chạy thận của bệnh viện đang điều trị 40 bệnh nhi chạy thận nhân tạo với tần suất khoảng 120 lượt mỗi tuần. Đồng thời theo dõi 35 trẻ thẩm phân phúc mạc ngoại trú, bằng cả phương pháp gián đoạn và liên tục. Ghép thận vẫn được xem là phương án tối ưu nhờ tỷ lệ sống cao, chất lượng sống tốt hơn, chi phí dài hạn thấp hơn và giúp trẻ phát triển thể chất - tinh thần ổn định hơn so với điều trị thay thế kéo dài.
Bệnh viện Nhi đồng 2 hiện là một trong những trung tâm ghép thận nhi tiên phong tại Việt Nam với 37 ca ghép được thực hiện. Nhiều kỹ thuật mới được cập nhật sát sao theo thế giới. Kết quả sau ghép cho thấy chức năng thận cải thiện rõ rệt, creatinin, hemoglobin và các chỉ số huyết học ổn định sau 1 tháng, 6 tháng và 1 năm.
Dữ liệu cho thấy bệnh nhi ghép thận tại đơn vị có tuổi trung bình khoảng 12, trong đó nhỏ nhất mới 9 tuổi. Các em chủ yếu mắc bất sản thận, bệnh cầu thận và phải chờ ghép trong khoảng từ 3 tháng đến 5 năm.
Trong tổng số 37 ca ghép, có 34 trường hợp nhận thận từ người cho sống, phần lớn là bố mẹ hoặc người thân và 3 ca nhận thận từ người cho chết não.
Sau ghép, bệnh viện ghi nhận nhiều biến chứng như thải ghép cấp và mạn, nhiễm trùng cơ hội, cũng như huyết khối mạch thận. Đáng tiếc, đã có 3 trẻ tử vong liên quan đến các biến chứng nặng này. Hiện 30/37 trẻ có thận ghép hoạt động tốt (81%).
Bác sĩ Thạch nhấn mạnh để mở rộng cơ hội cho trẻ suy thận giai đoạn cuối, Việt Nam cần đẩy mạnh hiến tạng từ người cho chết não. Đặc biệt, cần có hành lang pháp lý cho phép tiếp nhận tạng từ người dưới 18 tuổi, điều mà các trung tâm ghép thận nhi trên cả nước đều mong chờ.
Thách thức lớn mang tên EBV sau ghép gan
Không chỉ ghép thận, Bệnh viện Nhi đồng 2 còn thực hiện thành công hơn 50 ca ghép gan, trở thành bệnh viện nhi đầu tiên ở phía Nam triển khai kỹ thuật này.
Bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Hồng Vân Khánh, Phó khoa Gan Mật Tụy và Ghép Gan, Bệnh viện Nhi đồng 2, cho biết trẻ em khác với người lớn ở chỗ hệ miễn dịch của các em chưa đủ trưởng thành để tạo được miễn dịch bền vững với virus Epstein–Barr (EBV). Vì vậy, khi nhiễm EBV lần đầu, trẻ dễ diễn tiến nặng và có nguy cơ xuất hiện các biến chứng nghiêm trọng.
|
| Ghép tạng nhi vẫn là lĩnh vực mũi nhọn của Bệnh viện Nhi đồng 2 trong thời gian tới. Ảnh: Duy Hiệu. |
Một trong những biến chứng đáng lo ngại nhất là bệnh lý tăng sinh sau ghép (PTLD). Dù không phải biến chứng thường gặp, PTLD lại có tỷ lệ tử vong rất cao.
"Tại Bệnh viện Nhi đồng 2, trong 7 trường hợp mắc PTLD được ghi nhận, đã có 4 trẻ không qua khỏi", bác sĩ Khánh cho biết.
Trẻ sau ghép gan dễ bị nhiễm EBV vì tỷ lệ có sẵn kháng thể chống virus này tăng dần theo tuổi. Ở nhóm 6-8 tuổi, chỉ khoảng 54% có kháng thể, trong khi người trên 35 tuổi gần như 100% đều dương tính.
Trẻ dưới một tuổi đôi khi có kháng thể nhận từ mẹ trong thai kỳ, nhưng điều này không phản ánh miễn dịch thật sự. Khi phải dùng thuốc ức chế miễn dịch sau ghép, EBV dễ hoạt hóa mạnh, sản xuất nhiều protein virus và gây bệnh.
Trong 20 năm theo dõi 74 trẻ ghép gan (bao gồm cả những ca được ghép ở nơi khác chuyển đến), có đến 70% từng có EBV-DNA dương tính. Phân tích dữ liệu cho thấy tuổi ghép càng nhỏ, nguy cơ nhiễm EBV càng cao.
Bác sĩ Khánh cho hay một số trường hợp phải ngừng hoàn toàn thuốc ức chế miễn dịch trong một năm, có trẻ bị thải ghép nhưng được cứu bằng methylprednisolone, trong khi hai trường hợp khác chỉ cần ngừng thuốc mà không phải dùng rituximab. Ba trong số 7 trẻ gặp biến chứng tiêu hóa nặng như thủng và tắc ruột.
Bác sĩ Khánh nhấn mạnh rằng nhiễm EBV sau ghép gan ở trẻ em xảy ra khá thường xuyên nên việc theo dõi phải thật sát. Hiện chưa có cách phòng ngừa hiệu quả, vì vậy khi nghi ngờ PTLD, biện pháp quan trọng nhất vẫn là giảm hoặc tạm ngừng thuốc ức chế miễn dịch để cơ thể có cơ hội kiểm soát virus.
"Theo dõi tải lượng EBV-DNA định kỳ và phát hiện PTLD càng sớm càng tốt sẽ giúp giảm nguy cơ tử vong và bảo vệ kết quả ghép gan lâu dài cho trẻ", bác sĩ Khánh nhấn mạnh.
Da chỉ nhẵn mịn và căng bóng khi gan thải độc tốt. Mắt chỉ sáng trong khi lá gan được bồi bổ đúng cách. Có thể nói dưỡng gan chính là chìa khóa để dưỡng nhan. Cuốn sách Dưỡng gan để dưỡng nhan của bác sĩ - dược sĩ Thẩm Ninh là lời nhắc nhở đến phụ nữ hãy hình thành ý thức dưỡng gan.