Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Tết Huế của mạ

Phong vị Tết được tạo nên từ khí thiêng nghìn đời của quê hương xứ sở, với bao chắt chiu của bàn tay mạ. Bởi thế, mà cứ đến Tết người ta lại nhớ quê, nhớ nhà.

Tet xu Hue anh 1

GS.TS Thái Kim Lan, nhân vật "tôi" trong bài viết. Ảnh: FBNV.

Khi Mạ tôi mang các cháu con chị tôi sang Đức theo diện đoàn tụ với gia đình chúng tôi, Mai Lan, con gái tôi mới gần ba tuổi.

Buổi sáng sớm, Mai Lan đã đi lục cái tủ nhỏ đựng áo quần, cuống quýt níu tay mẹ đòi mặc áo để đi đón ngoại và các anh chị ở phi trường Riem. Đó đã là ngày rộn nhất của em. Rộn không chỉ vì khác với thông lệ thường ngày mà vì em nóng lòng muốn nhìn thấy bà ngoại trước hơn ai cả. Ấy, sinh sau đẻ muộn mà cũng vẫn muốn nhìn trước, huống hồ.

Nhưng cái chuyện “dành” nhìn trước này không phải vì muốn đua với ai mà vì em muốn “nhìn” bà ngoại thiệt mới tinh khôi trong con mắt em. “Bà ngoại” mà em đã được nghe mạ kể từ khi em mới biết nói và đòi nghe kể chuyện. Mạ của mạ, hình ảnh theo lời kể đang bay lượn trong trí non nớt mỗi đêm mỗi ngày...

[...]

Mai Lan ngắm nhìn bà, khuôn mặt trái xoan, da trắng mịn, mũi cao thẳng, đầu tóc bối, mái tóc mướt óng, quý phái, nụ cười đen nhánh, lạ lẫm, khác với những cô giáo của em, những bà Đức hàng xóm mập mạp, dáng bà ngoại thanh thanh, mà hình như cái răng đen làm cho gương mặt bà có chiều sâu... đầy bí mật, như kho tàng cổ tích chưa được kể, không ngần ngừ lâu, em đồng ý với mẹ, gật gật.

“Bà ngoại đẹp!”, bà ngoại nhìn thật khác, không tóc vàng, răng trắng. Bà ngoại hao hao mạ, lại ôm em thật mềm vì nhiều bụng hơn mẹ, bà cười với em thật ấm áp. A, đúng rồi, hàm răng đen của ngoại ấm áp chứ không lạnh lùng, thế là em vui như vừa đọc được một trang cổ tích mới.

[...]

Hình như “đẹp” đối với các đứa bé là tốt, là hay, là khác thường, gây sự chú ý, toát ra sự ấm êm. Tâm của chúng ít bị nhiễm bởi óc kì thị, định kiến, phân cao thấp nên chẳng ngủng ngẳng chuyện văn minh văng miểng.

Lâu sau bà ngoại với bé Mai Lan đã “tâm đầu ý hiệp” quấn quýt với nhau. Em bảo da thịt ngoại thơm mỗi khi lăn vào lòng ngoại nằm gọn lỏn ở trong. Mỗi lần nhìn con như thế, hầu như tôi cũng muốn lăn vào, vì quả thật, tôi còn nhớ rõ - đến hôm nay vẫn còn thật rõ - người mạ tôi toả ra hương thơm êm ái lạ kì đến nỗi thuở bé mỗi lần rúc vào nách mạ, cảm giác được thoa dịu yên ổn đến ngủ thiếp lúc nào chả hay.

Bỗng nghe niềm hạnh phúc được gần mạ dờn trên da ấm áp, nghe như có vị ngọt đã thiếu từ lâu lại thấm giọng trong giây phút ấy, cảm giác xa cách gần hai mươi năm như được xóa mờ.

Tet xu Hue anh 2

Tập tản văn Mai rồi mưa tạnh trong xuân của tác giả Thái Kim Lan. Ảnh: K.Đ.

Thế rồi từ hôm ấy, hay hôm trước kia, căn nhà của tôi như được “Việt Nam hóa” một cách tự nhiên như nhiên. Nơi đâu có chân mạ bước tới, ở nơi thành phố cả Đức lẫn Bayern cộng lại thành một thứ Đức đặc quánh cũng không chen vào được, ở đường Mai hay Sauerbruch hay Frauendorfer, mạ đều biến cái nhà nơi xa lạ ấy là “nhà mình” như chuyện hiển nhiên. Hôm đầu tiên, vừa xuống xe, dắt tay cháu, là vào bếp, coi gạo cơm mắm muối có chi, và buổi cơm trưa xem như là có sẵn.

Tuồng như bước qua một bước từ Huế là đã đến Đức, từa tựa nhà trong đi ra nhà ngoài, bếp bên nớ với bên ni, trừ cái bếp điện - mà bà học rất nhanh qua, kì dư mọi thứ trong nhà, chỉ hai bà cháu tay trong tay đó đây, là mạ đã biết thảy tần tật.

Tự nhiên và hiển nhiên, chuyện nhà cửa cũng như chuyện răng đen (mà có người đã đi cạo cho trắng trước khi đi Tây), mạ cười vẫn nụ cười thẳng thắn, áo dài mạ mặc, vẫn dong dảy, mượt mà quý sang, không Tây chẳng Tàu, Ta là Ta thôi. Cái bản ngã thuần chất ấy như trụ cột chùa “Một Cột”, chống chọi bốn phương không sờn, đứng vững không ngã.

Ngoại trừ tiếng Đức không nói được - điều đó mấy đứa cháu đỡ bà - kì dư mạ đã biến căn nhà... thường cho là “tạm trú” ấy trở nên thường trú lúc nào không hay.

Từ ngày mạ qua đây, cái cảm giác tạm bợ, tha hương hầu như không còn lay lắt trong tôi. Mặc dù giờ đây đã có gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đông đủ, cảm giác lang thang vô định vẫn giày vò không dứt. Bây giờ mỗi lần đi về, mở cửa vào nhà đã nghe tiếng mạ trong bếp lách cách nồi niêu, tự nhiên có một chút yên vui hửng lòng vì... “có mạ”.

Không để hở một phút là người vô dụng dù ở nơi đâu, mạ trông cái này, sắp cái nọ và Mai Lan được cùng với ngoại bi bô suốt ngày. Ngày rằm mùng Một đã nghe tiếng chuông đều hơn và mõ thì cả hai bà cháu mỗi người một chiếc (Mai Lan được ngoại cho cái mõ nhỏ xíu bằng nắm tay em), tràng hạt cũng hai, tiếng tụng kinh niệm Phật đã vang lên trong nhà, vừa già vừa trẻ, vừa thành kính vừa ngộ nghĩnh, thật vui và đầy phước báu.

[...]

Tôi hiểu ngay tâm sự của mạ, lúc ấy tháng hai dương lịch, bên nhà là cuối năm âm lịch, Tết Việt Nam sắp cận kề mà mạ thì ở phương xa. Người phụ nữ đảm đang việc nhà, việc gia nương, nhà thờ, mộ chí tổ tiên nội ngoại như mạ mà bà nội tôi thường khen, không thể không quay quắt.

Mạ sang Đức là vì thương chị tôi đã quá cố. Mạ nguyện đem các con chị qua Đức để có cơ hội học hành nên người, chứ thật tình mạ chẳng muốn rời xa quê nhà. Nếu mạ không đi thì không có giấy đoàn tụ gia đình với chúng tôi và các cháu không đi được.

Tháng hai trời Muenchen tuyết rơi, lạnh. Ngồi trong nhà nhìn ra, không đi đâu được dù chỉ ra vườn lượm lá, vì tuyết phủ ngập vườn, mạ hay bảo tuyết ngập ngoài hiên như lụt ở Huế mình, bó chân bó cẳng. Nhưng cơn lạnh vẫn không làm tê nỗi nhớ trong lòng người vừa xa xứ, cả về sau.

Dòng máu bản năng của cá hồi tìm về nguồn cội sủi tăm theo với mốc thời gian. Ở nơi con người ấy, vừa thương bên ni mà nhớ bên tê, ngổn ngang trăm mối, làm sao không thở dài?

Đã thấy mạ tính nhẩm một mình “hai mươi làm tốt, hăm mốt xâu tai, hăm hai đeo bông hăm ba đưa về...” rồi bỗng nói to “gần đến Tết mình rồi đó” và quay sang tôi - mọi năm sau vẫn y như thế.

[...]

Trong đôi mắt ấy đầy ắp cảnh Tết quê hương, những con đường, những cảnh nhà, bà con láng giềng, chợ Tết, hoa, đèn, bánh pháo, hương mứt ngào vang khắp sân nhà... Tôi hiểu ánh mắt ấy, thông cảm bởi khi bắt gặp nó, tôi như nhìn thấy được lần đầu đôi mắt của chính tôi trong cùng tâm trạng “nhớ nhà” “nhớ Tết” của những năm đầu tiên đi du học. Nhất là cái năm đầu ấy, chao ơi là buồn!

Chiều ba mươi đứng đợi xe buýt một mình trên ngọn đồi trơ trọi, chân trời xám ngắt với hàng cây khô trơ xương, gió thổi lạnh đến tê hồn ở một thành phố xa xăm. Nhớ lại vẫn còn rùng mình.

Giao thừa đã được giấc ngủ khó giỗ bỏ băng và trong cơn mơ hương quan, một nhánh mai nào đó trên chiếc thiệp cung chúc tân xuân từ Huế hiện về an ủi. Sáng mồng một vào trường như mọi khi, với nụ cười nửa miệng chia với chị bạn cùng cảnh ngộ. Đó là cái Tết buồn nhất trong đời du học.

“Bữa ni lo sửa soạn bên ni mà ăn Tết!”

“Ô ăn Tết! Ăn Tết ra răng ngoại hè? Ăn cái chi rứa ngoại!”

Lo bên tê rồi nghĩ đến bên ni, đó là mạ! Hình như trong suốt đời người mạ, hiện tại là một không gian xoay tròn để chòng chành nước đầy mọi nơi, không vơi bên nào.

“Mami ơi, Mình ăn Tết với ngoại đi!”

Dĩ nhiên chúng tôi đã ăn Tết mỗi năm, như tôi đã viết một lần đâu đó:

“… mỗi khi xuân về Tết đến, người xa quê nào cũng ráng 'ăn một cái Tết' ra hồn ngay trên mảnh đất tha phương mà mình đang sống, dù ở nơi hẻo lánh hay nơi chốn phồn hoa tấp nập, ... một mình hay với bạn bè đồng hương, lắm khi đầy đủ lễ nghi rình rang còn hơn ở quê nhà, cũng chợ hoa, cũng thiệp chúc Tết tưng bừng, cũng hội chợ ngày xuân, có khi cả bài chòi bài tới, bầu cua cá cọp. ...

Và họ có thể ăn lu bu, ăn kĩ lưỡng, ăn đến nơi, đến chốn, cái gọi là “cliché” ngày Tết, đại khái như “thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh”, và lắm khi cũng “ăn” luôn những “câu đối đỏ” , “nêu cao” ngất nghểu, “pháo nổ” giòn giã nơi những góc trời xa ngái Mỹ Âu…”, ấy vậy mà vẫn chưa phải Tết!”

Có lẽ vì thiếu mạ chăng?

“Mami năm ni ăn Tết!” con tôi nhắc. Và mạ tôi cũng đồng tình.

“Năm ni nấu bánh chưng bánh tét! Con lo mua nếp, mua đậu, thịt heo, tìm lá chuối, lá dừa...”

Nghe mạ nói như ra đề một bài toán khó. Nếp đậu thịt thì dễ, chơ lá chuối lá dừa thì e khan, chúng tôi thường gói bánh bằng giấy bạc, dĩ nhiên là phiên bản nửa vời vì lột cái bánh chưng ra thấy trắng bóc, không có màu xanh ngọc của lá, trông vô duyên. Dạo ấy, lá chuối tìm đâu ra ở Muenchen? Tôi phải tìm cách nhờ bạn bè đặt mua ở siêu thị châu Á bên Paris, một tuần sau mới có, cũng sát ngày đưa ông Táo bên Huế mình. Và chúng tôi chuẩn bị ăn Tết thiệt là Tết!

Như thường lệ, mỗi lần có chuyện gì mới xảy ra, tôi đều chuẩn bị tâm lí cho con bằng kể chuyện. Liền mấy đêm, Mai Lan được nghe kể sự tích Bánh chưng bánh dày của vua Hùng Vương đời thứ sáu. Hoàng tử Lang Liêu nghèo mà hiếu thảo với mẹ, tài trí, biết thương dân, đã nấu được món bánh chưng bằng nếp và đậu từ ruộng nhà, lá chuối trong vườn, thịt heo của người nuôi trong làng. Hoàng tử biết nuôi dân bằng món ăn thuần khiết và bổ dưỡng nên được vua cha truyền ngôi.

Để rồi cái ngày gói bánh đến và Mai Lan mừng rơn được ngoại cho ngồi phụ, đưa lá cho bà ngoại với sự trịnh trọng hành thâm một cuộc chuẩn bị “Ăn Tết”.

Chưa bao giờ Mai Lan được tham gia hàng giờ mà không biết mệt với sự chăm chút quan sát từng cử chỉ của bà ngoại: Đồ nếp, nhụy, thịt và gói từng cái một, rồi cột dây, bánh chưng thật vuông góc, bánh tét thì tròn. “Ngoại gói bánh tét tròn hơn mami, còn mami gói bánh chưng vuông như ngoại gói!”.

Thích nhất là cuối cùng em được ngoại cho cái bánh “vét”, tom góp mọi thứ còn sót lại làm thành một bánh chưng “con”, được làm dấu cẩn thận bằng hai lần dây tước lá chuối, thắt nơ. Chuyện cổ tích về sau không còn nhớ, nhưng cái bánh “chưng con” ấy (mà anh tôi thường đùa với bé là “cái chân con” - người Huế gọi cái chân là “chưn”), em vẫn còn nhớ mãi.

Bánh gói rồi mà nấu có dễ đâu! Chúng tôi phải tìm củi và bắt bếp vì mạ tôi không muốn nấu bếp điện. Thế là một cái bếp tạm thời được dựng lên ngoài hiên nhà với mấy viên gạch và củi khô, một thùng lớn chứa hai mươi cái bánh đặt lên trên.

Khi chúng tôi nấu được một hồi, củi đã bắt đầu đều lửa, thì ông hàng xóm chạy qua bấm chuông hỏi nhà bị cháy hay sao mà ban đêm lửa khói hừng hực. Chúng tôi trấn an người hàng xóm và giải thích là chúng tôi nấu bánh ăn Tết năm mới. Ông hàng xóm lắc đầu xí xoá. Khoảng năm giờ sáng, khi nồi bánh vừa được duống xuống, lại có tiếng bấm chuông, lần này dõng dạc hơn.

Hai người cảnh sát lù lù đến, và hỏi nhà chúng tôi bị cháy phải không, vì hàng xóm gọi điện báo cảnh sát. Lại phải giải thích chuyện nấu bánh. Hai người tròn mắt nhìn khay bánh còn bốc hơi, gật gù không biết tại sao loại bánh này lại cần lửa củi đến như thế. Trước khi ra về họ còn chúc năm mới với câu hỏi lớn trong đầu vì năm mới đối với họ đã qua lâu.

Cả đêm không ngủ với nồi bánh, mạ tôi cười xòa vì mấy gương mặt hớt hơ hớt hải của mấy ông Tây.

Năm ấy Mai Lan được ăn một “cái Tết bà ngoại” sung sướng nhất trong tuổi thơ. Sáng sớm em được mặc áo mới, vòng tay chúc Tết bà ngoại và được bà ngoại cùng mọi người lì xì. Bàn thờ Phật và tổ tiên sáng ấm cúng với đèn nến và hương trầm. Mai Lan quỳ với bà ngoại trong lúc ngoại khấn vái đầu năm.

Có lẽ vì thế mà bây giờ, mỗi lần thắp hương cho ngoại và cho tổ tiên, Mai Lan vẫn còn giữ thói quen đứng khấn thì thầm với bà ngoại rất lâu như khi ngoại còn sống đã cùng em trải qua những giây phút thiêng liêng ấy.

Năm ấy chỉ thiếu một cành mai ở cố viên, nhưng tuyết lạnh không còn làm tê cóng tâm hồn. Lần đầu tiên tôi được ăn một cái Tết “ở nhà”, như thể được sà vào lòng mạ cùng với con và cháu, vào trong tấm lòng như nhiên bao trọn bến bờ vô tận ấy.

Đến nỗi về sau, bất chợt nhận ra - một lần ăn Tết ở quê mình, thiệt sự ở nhà - mình lại nhớ chi lạ ngày Tết, không khí đầm ấm của bếp lửa giao thừa - cũng - “ở nhà” bên ấy!

Một người tài hoa ở quán cà phê xưa nhất Ông Tạ

Nhiều người Ông Tạ “nhẵn mặt” với một quán cà phê trong ngõ Con Mắt (nay là hẻm 766 Cách Mạng Tháng Tám).

Đòn bánh tét đượm hương vị miệt Hậu Giang

Đòn bánh tét được coi là vật quan trọng nhất. Nó là hương vị ngày xuân, là thực phẩm vừa ngon miệng, vừa no lâu, vừa để tưởng nhớ ông bà tiên tổ.

Thái Kim Lan / NXB Kim Đồng

SÁCH HAY