Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Sự sống chẳng bao giờ chán nản

Trong những ấn tượng mà con người và thơ Xuân Diệu để lại cho đồng nghiệp và bạn đọc, có một điều rõ rệt là tác giả "Thơ thơ" rất yêu đời.

Sớm thấm nhuần nền văn hóa phương Tây, Xuân Diệu nhìn đời như một cái gì trôi chảy mà mình không thâu tóm, thì nó sẽ bay biến. Từng biểu hiện nhỏ của cuộc sống được ông chắt chiu góp nhặt. Thấy cái gì mới cũng hồi hộp, nhận được cái gì cũng biết ơn, và làm được cái gì thêm cho đời, ông cũng sẵn sàng.

Giả sử ngồi bên mâm cơm cạnh tác giả, ta sẽ thấy ở Xuân Diệu vừa có cái sung sướng của trẻ nhỏ, thấy cái gì cũng ngon cũng bổ cũng muốn ăn thêm một chút, để cho khỏe cho lớn thêm, lại vừa có cái lý lẽ của người đọc sách nhiều, sành ăn, biết ăn như thế nào thì đủ chất và có lợi cho cơ thể mình nhất.

Xuân Diệu đã nâng chuyện ăn uống lên thành một phương diện của đời sống, và đối xử với cái phương diện mà mọi người thường cho là phàm tục và bỏ qua ấy một cách cẩn trọng, cẩn trọng vô cùng, chứ không bao giờ xem thường coi nhẹ.

Tôi nhớ một bài ký, Xuân Diệu viết sau một đợt lên Mèo, ở đó, ông tả cảnh người ngồi ăn giữa chợ rất sảng khoái. Lúc đầu đọc thấy thô thiển, khó chịu; sau hiểu ra, thấy Xuân Diệu là thế, Xuân Diệu thi sĩ thường bắt đầu nói về cuộc sống từ cái nhỏ nhặt.

Mà chẳng cứ trong chuyện ăn uống: Hình như làm được điều gì, để chứng tỏ là mình đang sống, Xuân Diệu cũng đều sẵn sàng bỏ công ra làm. Theo khoa học, sự sống tồn tại nhờ hai quá trình đồng hóa và dị hóa. Đồng hóa là hấp thụ tiếp nhận, làm cho mình giàu thêm. Và dị hóa tức là mang cho, bộc lộ ra ngoài, đưa ra, thải ra những gì đã tiêu hóa sau khi tiếp nhận, để rồi tạo một khoảng trống mà tiếp tục đồng hóa nữa.

Một cơ thể sống như Xuân Diệu là một cơ thể đồng hóa và dị hóa được tiến hành đều đặn, mạnh mẽ, không ngừng không nghỉ. Như là trong sáng tác. Đọc sách ngốn ngấu, phăm phăm đạp xe đi thực tế, ghi chép, gạn chắt lấy từng chi tiết nhỏ. Rồi về, là trả nợ, là hùng hục viết - một thời gian dài, ngày tháng của Xuân Diệu xoay quanh cái quy trình khép kín đó.

Không ai hay nói đến sự thiêng liêng của việc làm thơ viết văn như ông nhưng cũng không ai biết biến thơ thành công việc hàng ngày, làm một cách đều đều, một cách máy móc, một cách phàm tục như ông (chả thế có lần nhìn Xuân Diệu ngồi làm thơ, Trần Đăng Khoa đã bảo rằng cha mình ở nhà quê đi cày cũng không vất vả đến như thế).

Chưa hết. Sau khi đã làm xong một khối lượng công việc khổng lồ (khối lượng của một viện hàn lâm, ý của Tố Hữu) lại còn phải lo đăng tải, giới thiệu, liên hệ với người này để in, nhận lời người kia đi nói chuyện, làm sao cho thiên hạ “mục sở thị” cái tài đô lực sĩ của mình nữa chứ.

Một cách tự nhiên Xuân Diệu nhẫn nại tự mình hết lòng lo toan những việc đó, để có dịp xuất hiện.

Về già, Xuân Diệu còn giữ được bản nháp những bài thơ đầu tiên, xóa dập rất ghê. Theo sự nhớ lại của tác giả, lần ấy, cũng như nhiều lần về sau, cái mạnh nhất ở ông là ý muốn làm thơ, là cái khao khát được viết ra, và hãy viết ra đã, viết bằng văn xuôi trước, rồi sắp xếp sau. Suốt đời Xuân Diệu ham hố vậy.

Xuân Diệu xa lạ với loại nghệ sĩ rạc dài, nghệ sĩ lang thang sống đến đâu hay đến đó, chỉ sống bằng cảm hứng thất thường sau những chuyến giang hồ vặt, rồi tồn tại theo kiểu tầm gửi trông cậy vào lòng tốt của những Mạnh Thường Quân nào đó: So với họ Xuân Diệu là một loại khác.

Ông cẩn thận hành nghề, chi chút chăm lo tài năng bản thân. Nghề viết, đối với ông, không thể là một quá trình tự phát. Ngược lại phải làm sao huy động hết tiềm năng để đạt tới hiệu suất cao nhất.

Phải chăm chỉ chuẩn bị, dè sẻn sử dụng sức lực, để lúc có thời cơ, đi thật nhanh tới mục đích của mình. “Sau khi phấn đấu trong từng công việc cụ thể, người ta còn cần biết tập trung sức lực tạo nên những thành quả đích đáng như năm ngón tay dồn lại thành một quả đấm”.

Xuân Diệu đã nói điều đó với bao người, kể cả người viết bài này và chúng tôi hiểu đó là những điều gan ruột, Xuân Diệu rút ra từ mấy chục năm làm nghề của mình. Khoảng 1980, có lần, ở Hà Nội, Xuân Diệu đến nhà tôi vào lúc bốn giờ rưỡi chiều.

- Đã mất công đạp mấy cây số xuống đây sao anh không đến sớm một chút, anh em mình ngồi nói chuyện chơi?

- Chiều vừa đi làm việc với một bạn nhà văn Hung; tối, lại phải ngồi viết một bài bút ký để sáng mai nộp cho Đài. Thế cậu bảo không đến thăm vào lúc này thì để đến bao giờ?

Lại như cái lần tôi đến nhờ Xuân Diệu dịch một đoạn tài liệu cho cuốn Mười nhà thơ lớn của thế kỷ, do Nguyễn Quân và tôi cùng biên soạn. Thực ra một mẩu vặt như thế này, chả bõ bèn gì đối với một nhân vật đã có đến vài chục đầu sách như Xuân Diệu. Nhưng hình như vì cuốn sách có cái tên thú vị quá, nên Xuân Diệu vẫn muốn góp cho nó một chút công sức bé nhỏ.

Ông hỏi tôi kỹ lưỡng yêu cầu số chữ và hẹn giờ đến lấy. Và khi theo lời hẹn tôi đến tận nơi lấy bài, thì Xuân Diệu cũng chỉ vừa mới làm xong. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là cái tập hồ sơ Xuân Diệu có trong tay.

Đã viết về bất cứ ai, Xuân Diệu đều để công làm tài liệu đến mức tối đa. Sự tài tử, sự linh hoạt, cái bột phát trong ý kiến của con người này thật không làm ai lạ lùng. Cái lạ là chính sự công phu của con người có thừa lý do để sống và viết tài tử đó.

Đến như sự cày xới của Xuân Diệu trên từng trang thơ của các tác giả cổ điển thì chúng tôi lại càng vì nể. Với một tác phẩm như Truyện Kiều, hầu như bất cứ nhà văn nhà thơ nào của chúng ta cũng viết được vài trang. Nhưng riêng về Kiều và Nguyễn Du viết được mấy trăm trang sách, trong đó có những bài bàn sâu về từng chữ trong Kiều như Xuân Diệu đã làm, đâu có phải dễ.

Nhân một lần đi công tác với Xuân Diệu, tôi đánh bạo hỏi:

- Trước anh không biết chữ Hán, vậy làm thế nào?

- Cứ học dần. Và nhất là đọc thật kỹ. Các bậc tú tài cử nhân hay chữ đã làm đầy đủ công việc của họ; mọi chữ khó đã được cắt nghĩa rồi. Mình chỉ chọn lọc và phân tích thêm thôi.

Hóa ra, lại cái phương châm cũ của Xuân Diệu: Không sĩ diện. Mạnh dạn hút lấy tinh hoa của người khác. Như trong làm thơ, biết nhặt từng câu nói vương vãi hàng ngày, tự nó đã mang ý thơ rồi đưa vào bài của mình. Như trong viết báo, biết trích dẫn và thuật lại các chi tiết một cách khéo léo, đến nỗi có khi người đọc đọc qua ở đâu đó rồi, đọc lại vẫn thấy mới.

Giá ai bảo, chúng ta còn có thể không tin. Nhưng chính Xuân Diệu đã tự nhận như vậy cơ mà! Con người khá giàu có đó như luôn luôn giơ tay lên cả cười mà nói với chúng ta:

- Các anh nghèo vì các anh quá hoang toàng. Còn tôi, tôi chỉ hơn các anh ở chỗ tôi không bỏ phí gì hết.

Đi đến cùng trên con đường đã chọn, con đường ham bộc lộ, ham xuất hiện, nhiều khi Xuân Diệu hiện ra như một người mà ở nông thôn thường được gọi là tham lam càm quắp nghĩa là bất chấp lẽ thường, cốt có mặt và đòi bằng được cái phần của mình.

Sau khi Thơ thơ in ra lần đầu 1938, nhà phê bình Trần Thanh Mại, nhân danh một con người có theo dõi tài năng của Xuân Diệu từ khi còn trứng nước, không quên để ý đến bài thơ Mười chữ:

"Mưa dầm - thu dưới nguyệt

Máng chảy - suối trên nhà"

Trần Thanh Mại bảo mấy câu thơ này không hay, mà lại có phần sáo. Rồi nhà phê bình tìm cách cắt nghĩa sự có mặt của nó trong tập:

“Đời xưa và cả đến đời nay cũng vậy, có nhiều nhà trưởng giả có một tập quán quái gở lắm: Răng họ rụng ra, họ đem gói gắm cất kỹ, móng tay họ cũng thế. Không phải vì họ mê tín, sợ khi chết về âm phủ, không đủ răng mà nhá hay không đủ móng tay mà gãi. Chỉ vì họ quá yêu họ đi! Vật gì trong người họ lìa ra khỏi, là họ không nỡ bỏ rời, bỏ rớt, bỏ tồi, bỏ tàn. Chỉ thiếu chút nữa là họ cất cả những vật thường ngày họ đi tiện ra mà thôi!

Ông Xuân Diệu cũng gần như mấy nhà trưởng giả ấy. Chỉ vì ông quá tiếc một vật mà óc não ông đã cấu tạo ra nên ông không nỡ bỏ đi, mặc dầu nó chỉ gồm có mười chữ. Mười chữ sáo!” (Trần Thanh Mại, Đời văn).

Lời mỉa mai có thể là hơi nặng. Song nét tâm lý Trần Thanh Mại miêu tả là có thật. Trong khi bảo rằng tâm lý tham lam kiểu Xuân Diệu không phải là không phổ biến, nhà phê bình đã gọi đúng căn bệnh: “Chỉ vì họ yêu họ quá”. Chúng ta dự đoán đọc đến chỗ này, Xuân Diệu chắc cũng phải cười khà “Chịu thầy, chịu thầy!”. Còn ai yêu mình hơn Xuân Diệu nữa!

“Chết nhưng nết chẳng chừa”, rồi Xuân Diệu sẽ giữ mãi cái tính ấy, chẳng bao giờ thay đổi cả.

Ngay từ 1958-1960, đọc một số tiểu luận của Xuân Diệu được in ra hồi đó như Những bước đường tư tưởng của tôi, Ba thi hào dân tộc, một thanh niên mới lớn như tôi đã ngạc nhiên nhận ra một chỗ lạ đập ngay vào mắt, là các quyển sách ấy, thường có mục "Cùng một tác giả", đặt ngay ở đầu sách - một điều tôi chẳng bao giờ thấy ở sách của các tác giả cũng nổi tiếng khác, như Tô Hoài và Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân và Tố Hữu.

Cùng với thời gian, bảng kê này ở sách Xuân Diệu ngày một kéo dài ra, và chữ ngày một nhỏ bớt đi, chúng tôi đọc, có lúc vui vui, vì thấy lao động của Xuân Diệu được ghi nhận rõ ràng - cái ý thức tác giả ở con người này thật không thể xem thường; song cũng không khỏi có lúc thầm nói với nhau: Sao nhà thơ yêu quý của mình háo danh thế.

Trong cách nhìn đời của nhiều tác giả có cốt cách, thường khi người ta bắt gặp không ít thì nhiều một sự bất mãn. Bởi họ có quan niệm riêng về cuộc đời. Khi thấy thực tế chung quanh không diễn ra như mình nghĩ họ đau đớn, dằn vặt và thường tìm cách không để cho cái ô trọc của đời thấm vào mình.

Không nói đâu xa, ngay ở một vài nhà thơ đương thời của Xuân Diệu và không thành đạt như Xuân Diệu - chúng tôi muốn nói tới Trần Huyền Trân, Thâm Tâm... - hình ảnh nhà thơ hiện lên qua các sáng tác là hình ảnh một người giữ bằng được sự độc lập của ngòi bút, chống lại thói hùa theo đời, cho đến nhịp thơ của họ cũng không chịu thuận theo cái đều đều hòa hợp của thói đời mà mang nhiều ngang trái nghịch phách.

Xuân Diệu không thế. Trong đời sống hàng ngày Xuân Diệu có thể xoay xỏa vòi vĩnh trước sự đối xử xô bồ của chung quanh, ông cũng giận dỗi, cáu gắt. Nhưng trong thơ - là cái phần tinh túy nhất của một con người - thì hoàn toàn không. Trước sau, tức là cả khi mới bước vào đời, lẫn khi đã có tuổi rồi, chuẩn bị bước vào cõi âm vô cực của cuộc đời này, ông chỉ có một điều nói đi nói lại:

- "Tôi xin cảm tạ cuộc đời".

- "Đời đáng sống, muôn ngàn lần đáng sống".

Hình ảnh nhà thơ hiện lên qua các tác phẩm là hình ảnh một người thèm khát, chân tay lúc nào cũng luống cuống chỉ mong làm được một điều gì đó cho vừa lòng đời, và mong đời đừng quên mình. Ôi! sẽ đau đớn làm sao, nếu trong bữa tiệc đời muôn vàn hào hứng ấy, mình lại không được có mặt.

- "Uống xong lại khát là tình / Gặp rồi lại nhớ là mình với ta".

Cái sự tham lam thèm khát như thế này không chỉ đặc trưng cho Xuân Diệu trong quan hệ tình ái, mà là đặc trưng cho toàn bộ cảm quan đời sống của Xuân Diệu nói chung.

Trước mắt nhà thơ, cuộc đời thường khi tròn đầy viên mãn:

"... Trăng từ viễn xứ / Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn".

Mà vận mạng con người thì bấp bênh và nhỏ nhoi không nơi bấu víu:

"Em sợ lắm, giá băng tràn mọi nẻo".

Lời thú nhận tội nghiệp này có lẽ là cơ sở để nảy sinh cái cảm giác thường trực ở Xuân Diệu “sát hơn nữa, thế vẫn còn chưa đủ”.

Đi ra chợ chọn mấy quả cam, nhận gói kẹo người khác biếu, Xuân Diệu cũng tìm cách nâng nó lên thành một việc có ý nghĩa của đời. Mà đã gọi là việc đời thì “trân trọng muôn vàn, muôn vàn trân trọng”.

Một hiện hữu khác của lòng yêu cuộc sống, là Xuân Diệu rất... ngán cái chết.

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh cho biết, có lần ông được tác giả Thơ thơ cho xem một bài làm từ năm 1934. Bài thơ 18 đoạn mỗi đoạn 8 dòng đó mượn chuyện than thở cho mấy người chết trẻ để bảo rằng: Khi chết người ta rơi vào cô đơn hoàn toàn. Bạn quên, những cô gái quên; anh em cốt nhục cũng quên. Chỉ mẹ cha nhớ nhưng mẹ cha già cũng chết.

"Nhớ các anh hoài chỉ mẹ cha

Song tro tàn lạnh không còn lửa

Rồi đèn mờ tắt thế là thôi

Không một người thương ở cõi đời".

Kết luận cái chết càng đáng ghê sợ, nếu như người chết đó không để lại dấu vết gì.

Và đây một sự kiện nhiều người được chứng kiến: Ấy là cái thảng thốt của Xuân Diệu khi được báo là Nguyên Hồng qua đời. Nhân đây, Xuân Diệu định nghĩa về cái chết: Nó mạnh vô cùng. Nó biến người ta từ dương vô cực thành âm vô cực.

Gộp cả hai mẩu chuyện này lại, chúng ta thấy trước sau Xuân Diệu vẫn là mình. Cách hiểu về sự sống lúc trẻ thế nào, lúc trưởng thành vẫn vậy. Kể ra ở chỗ này chúng ta có thể tranh cãi với Xuân Diệu: Rằng sự sống kia cũng có năm bảy đường, có sự sống cao cả và sự sống loàng xoàng. Rằng chết không phải là tiêu diệt tất cả, mà cái sống cũng không phải là có sức mạnh vô địch.

Có những người chết ngay khi đang sống. Có những sự sống kéo dài lê thê vô ích, không khác gì cái chết. Chỉ có luôn luôn làm mới cuộc sống của mình luôn luôn bắt đầu lại, nhận thức lại, người ta mới có một cuộc sống có ý nghĩa thật sự. Và chỉ có luôn luôn đạt đến sự hoàn thiện, sự thanh lọc - một cái gì giống như sự hư vô - người ta mới có được sự sống vĩnh viễn...

Giá như Xuân Diệu đi tới một quan niệm gần với phương Đông như thế, không chừng trang viết của ông sẽ khác đi! Nhưng mỗi người chúng ta như thế nào là do một chương trình có sẵn, muốn làm sao được.

Vương Trí Nhàn / NXB Kim Đồng

SÁCH HAY