Bi kịch ập đến khi bà bị nhồi máu cơ tim và qua đời vào năm 1938. Đó là một đòn mạnh của số phận giáng xuống đầu tất cả chúng tôi. Đối với đứa bé 11 tuổi là tôi khi ấy, thế giới bỗng chốc như sụp đổ. Giờ đây, khi trụ cột trong nhà chỉ còn lại cha, tôi biết rằng mình sẽ phải tìm cách sống tự lực cánh sinh. Tôi học được rằng sự tự tin xuất phát từ sự chính trực và cách đối xử công bằng, đồng thời cũng là phần thưởng dành cho sự chân thành và hiệu suất lao động.
Vốn từng có thời gian làm giáo viên, hiệu trưởng một trường cấp ba, và cũng là một cử nhân đại học, cha hiểu rõ những lợi thế của một nền giáo dục tốt, và ông muốn tôi được hưởng nền giáo dục tốt nhất. Đầu tháng 9/1939, cha lái xe đưa tôi tới trường Mount Hermon ở phía bắc Massachusetts. Chuyến đi của chúng tôi trùng thời điểm với sự kiện Đức xâm lược Ba Lan, mở đầu cho Thế chiến II. Cả hai sự kiện này đều đóng vai trò quan trọng định đoạt tương lai của tôi.
Những tuần đầu xa nhà quả thực là không dễ dàng.
Cha buộc phải quay lại trường để chỉnh đốn tôi một trận ra trò. Cuối cùng, ông quay sang tôi nói: “Jimmy, cha sẽ không đưa con về nhà đâu. Con sẽ phải ở đây và cố mà học cho tốt, hãy chuẩn bị sẵn tinh thần cho việc đó đi”. Tôi biết ông rất đau lòng khi thấy con trai mình trong trạng thái yếu đuối sụt sùi như vậy. Ông nói rằng Mount Hermon là môi trường phù hợp với tôi. Con đường duy nhất ở đây là tôi phải buộc mình vững vàng lên và làm quen với trải nghiệm mới này.
Trong vài ngày tiếp theo, tôi dần dần thoát ra khỏi nỗi chán chường ủ dột và bắt đầu hòa mình vào bầu không khí hào hứng trong các hoạt động của trường. Tôi tích cực tham gia các môn thể thao, các lớp học, vùi đầu vào sách vở nhưng không quên gặp gỡ các nam sinh khác và kết bạn mới, ăn uống đầy đủ, và nhìn chung là thích thú tận hưởng cuộc sống ở ngôi nhà mới. Tôi bắt đầu nghĩ đến Mount Hermon như ngôi nhà mới ở cách xa nhà mình, và cách suy nghĩ này đã giúp khơi lên trong tôi một cảm thức về sự độc lập, về tinh thần tự lực cánh sinh mà trước đây tôi chưa từng biết đến. Sự tự tin mới tìm được này, bên cạnh đó là cơ hội học tập và trưởng thành, là nguồn cảm hứng cho năm học đầu tiên của tôi.
Khi quay trở lại trường Mount Hermon vào tháng 9/1940, tôi mang theo đầy ắp những kỳ vọng, trong lòng không khỏi cảm thấy hân hoan phấn khích vì được trở lại trường. Trong khu vực bếp ăn ở tòa nhà West Hall, tôi được giao nhiệm vụ hỗ trợ chuẩn bị đồ ăn thức uống cho 600 nam sinh và các giáo viên trong khoa. Đây cũng là trải nghiệm đầu tiên của tôi trong lĩnh vực phục vụ đồ ăn, và tôi đã rất vui khi làm công việc đó.
Ảnh minh hoạ. Nguồn: BBC. |
Tháng 5/1942, tôi được bầu làm chủ tịch hội đồng học sinh cho năm học cuối cấp sắp tới. Lúc này tôi cũng đang bận rộn lập kế hoạch để học tiếp đại học, nhưng chiến tranh vẫn đang tiếp diễn và khả năng cao là tôi sẽ phải nhập ngũ. Học sinh cuối cấp phải thực hiện các bài kiểm tra năng lực, qua đó các cố vấn trường học có thể giúp học sinh xác định được hướng đi nghề nghiệp phù hợp nhất và lựa chọn được trường đại học tốt nhất cho mình.
Kết quả các bài kiểm tra mang lại cho tôi nhiều thông tin hữu ích. Tôi được khuyến khích theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến bán hàng hoặc marketing. Tôi vốn yêu quý mọi người, hơn nữa có lẽ trong thời gian học ở trường Mount Hermon tôi cũng đã trang bị được cho mình một số kỹ năng giao tiếp có giá trị, và điều này vô tình lại rất trùng hợp với hướng phát triển sự nghiệp trên.