Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Nước máy Hà Nội

Người Pháp đã mang nước máy tới Hà Nội thay cho giếng đào và việc sử dụng nước ao, hồ để sinh hoạt. Việc nước nôi ở đô thị hàng triệu dân cũng thật nhiều kỷ niệm.

Ky uc Ha Noi anh 1

Những trụ nước máy và giếng nước công cộng gắn với những câu chuyện của Hà Nội một thời. Ảnh: H.N.M.

Có lẽ cứ mỗi năm Hà Nội lại nóng dần lên. Mùa hè càng ngày càng nóng nực và cái nhu cầu cần nhất chẳng gì khác đó là nước sạch. Đã có so sánh mất nước với mất điện. Thật thì mất điện cả tuần, thậm chí dài hơn vẫn xoay xỏa được nhưng mất nước xem, nội chỉ một ngày là biết mặt nhau ngay. Tá hỏa như nhà có giặc, mọi sinh hoạt hầu như bị ngưng trệ. Cuộc sống trở nên nặng nề hơn cả địa ngục.

Đấy, nước sạch nó quan trọng thế đấy, nhất là nước của một Hà Nội hiện đại hôm nay.

Nước sạch ở Hà Nội được gọi nguyên thủy là nước máy. Trước khi người Pháp du nhập công nghệ nước máy vào Hà Nội thì người dân kinh thành vẫn sử dụng thứ nước truyền thống từ giếng đào và những nguồn nước tự nhiên như đầm, hồ, sông, qua cách khử lọc bằng phương pháp dân gian là đánh phèn.

Nhà máy nước Yên Phụ là nơi sử dụng công nghệ khoan và sử dụng nước ngầm đầu tiên ở Hà Nội. Và nó có mặt rất sớm từ những năm cuối thế kỷ 19. Song song với nhà máy nước là tháp nước Hàng Đậu làm chức năng chứa nước từ trên cao để tạo áp lực đưa nước đến hệ thống tiêu dùng.

Cả hai công trình có tuổi đời trên một trăm năm này vẫn tồn tại như là chứng nhân của một thời bất chấp thời gian. Thậm chí tháp nước Hàng Đậu tồn tại như một công trình kiến trúc của Hà Nội cổ. Cũng như những mặt hàng khác, đầu tiên nước chỉ dành cho chính người Pháp, sau được mở rộng ra cả nguồn cung cấp lẫn tiêu thụ.

Từ những gì của ngày đầu tiên đến hôm nay, hệ thống sản xuất và cung cấp nước của Hà Nội đã có thêm nhiều nhà máy nước, hệ thống đường dẫn đến từng hộ dân.

Nước máy của Hà Nội bây giờ vẫn khai thác phần lớn bằng trữ lượng khổng lồ của túi nước ngầm và phần nào là nước mặt, tức nước dẫn từ hồ chứa sông Đà về. Nước từ thuở sơ khai đến bây giờ là mặt hàng vừa hiếm vừa quý với người dân, và có lẽ chưa bao giờ nước được cung ứng đủ nhu cầu để người dân dùng thoải mái.

Ai sống ở thời bao cấp mới thấy nước dạo đó hiếm và quý thế nào. Người dân chắt chiu tiết kiệm nói không quá là từng giọt nước. Nguyên hệ thống ống dẫn nước từ người Pháp làm bằng gang được chôn sâu trong lòng đất tỏa đi khắp phố phường.

Ngoài đường ống dẫn vào nhà dân thì Hà Nội đặc biệt có một loạt các trụ máy nước. Các máy nước này được đúc bằng gang có vòi làm bằng gang hoặc đồng. Chúng được gọi là các vòi nước công cộng. Sau này khi Hà Nội giải phóng thì các vòi nước đường phố được xây bằng xi măng. Có thêm các bể nước công cộng ở các khu tập thể lớn và những khu gia đình vừa và nhỏ.

Thậm chí, vì áp lực nước yếu, người ta còn đào sâu xuống đất thành những bể chứa nước ngầm và đục đường ống ra để chiếm hữu nước. Từ những bể nước ngầm này, người dân dùng xô được chế bằng cao su để thòng dây múc nước. Chính những bể chứa ngầm được đục thẳng từ đường ống đã làm mất tác dụng và khai tử các vòi nước công cộng đứng trên mặt đất, do quá cao nên nước không thể chảy đến được.

Chuyện về nước máy thời kỳ này thì vô thiên lủng. Tôi chưa quên cảnh xếp hàng lấy nước thâu đêm suốt sáng. Các vòi nước công cộng hầu như chảy liên tục. Người dân xếp hàng với chính chiếc thùng gánh nước bằng thiếc hoặc sắt tây. Nước được vận chuyển bằng đòn gánh có móc xích nối với thùng nước.

Hình ảnh cái vòi nước có một khoảng xi măng bao bọc hay khoảng sân cạnh bể nước công cộng chứa đám người với đủ mọi sinh hoạt như rửa rau, giặt quần áo thậm chí là tắm thật sống động. Bực nhất là lúc đến lượt mình lấy nước vào thùng thì một bà sồn sồn chìa cái chậu quần áo vào bảo xin một chậu.

Xong thì lại đến một cô đủn cái chậu đựng rau muống bè đang rửa vào cũng lịch sự xin. Cái chậu rau muống nước dâng đến đâu bèo tấm nổi kín mặt chậu đến đấy. Và tất nhiên, chị này để cho nước tràn ra cuốn theo đám bèo tấm nổi tràn ra ngoài. Cá biệt thì có cái đầu đen của cánh đá bóng về vục hẳn vào vòi xin nước uống.

Các hộ gia đình có sân chung thì đựng nước riêng từng nhà bằng các vật dụng chứa như thùng phuy sau khi lấy nước từ vòi nước hoặc bể. Dạo đó, còn có người làm nghề bán nước máy chứa trên thùng phuy đặt trên ba gác kéo trên đường phố.

Tôi học gánh nước từ rất nhỏ khi chỉ bảy, tám tuổi. Đôi thùng nước với hai móc xích ngắn tòng teng treo trên đòn gánh từ lúc nước chỉ láng đáy, rồi đầy dần lên cho đến khi quen là gánh đôi thùng nước đầy.

Một lần, vì nước vơi đu đưa thùng khiến thằng bé tôi bước chân không kịp nên đáy thùng bằng vành đai tôn cắt phập vào gót khiến máu chảy lênh láng. Và cũng tại bể nước công cộng đã được hạ cốt ở ngay cửa nhà tôi, mối tình nước máy của tôi đã được nhen với cô hàng xóm khi cùng nhau thức đêm lấy nước.

Phạm Ngọc Tiến/ NXB Trẻ

SÁCH HAY