Để giải thích tại sao sự cô đơn lại có sức mạnh như vậy, Cacioppo đã chuyển sang nghiên cứu về não bộ. Từ lâu, ông đã nghi ngờ rằng chỉ mỗi hỗ trợ xã hội thôi không thể giải thích đầy đủ những ảnh hưởng sức khỏe của việc hòa nhập hoặc cô lập xã hội. Ông nói: “Bộ não là cơ quan hình thành, đánh giá, giám sát, duy trì, sửa chữa và thay thế các kết nối có lợi cho sức khỏe, cũng như điều chỉnh các phản ứng sinh lý góp phần mang lại cuộc sống khỏe mạnh hoặc bệnh tật và tử vong".
Ông đã phát triển một lý thuyết táo bạo: Sự cô đơn bắt đầu như một phản ứng thích nghi. Cũng giống như cơn đói báo hiệu rằng chúng ta cần ăn, có lẽ sự cô đơn là một hồi chuông cảnh báo được thiết kế để khiến chúng ta muốn ở bên người khác, tương đương về mặt xã hội với nỗi đau thể xác, cơn đói và khát. Ông viết: “Sự tiến hóa đã tạo cho chúng ta không chỉ cảm thấy thoải mái khi được kết nối, mà còn cảm giác thấy an toàn. Hệ quả tất yếu cực kỳ quan trọng là sự tiến hóa đã khiến chúng ta không chỉ cảm thấy tồi tệ khi bị cô lập mà còn cảm thấy bất an, như bị đe dọa về thể chất.”
Nói cách khác, theo lý thuyết của ông, sự cô đơn chính là cảm giác bị cô lập về mặt nhận thức khiến ta thấy không an toàn. Ông nói: “Khi bạn nhận ra rằng mình đang ở ngoài rìa xã hội, điều đó không chỉ khiến bạn cảm thấy buồn mà còn là mối đe dọa cho sự sống còn của bạn. Bộ não [của bạn] chuyển sang chế độ tự bảo vệ.”
Trong trạng thái đó, giống như một con vật vị tách khỏi đàn, bạn trở nên lo lắng về bản thân hơn những người xung quanh và bạn trở nên cảnh giác trước những mối đe dọa xã hội có thể xảy ra. Đối với nhiều người trong chúng ta, những cảm giác này như một lời nhắc nhở để gọi điện cho một người bạn.
Nhưng thật không may, đối với những người thường xuyên cô đơn, trạng thái nhận thức về mối đe dọa này thường khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn do làm suy yếu các kỹ năng xã hội. Cacioppo nói: “Bản chất của các kỹ năng xã hội là bạn có khả năng đặt mình vào vị trí người khác và thể hiện sự đồng cảm.” Điều đó ngày càng trở nên khó thực hiện khi bạn cô đơn.
|
| Nỗi cô đơn không chỉ là trạng thái tâm lý mà còn là phản ứng cơ thể mang tính cảnh báo. Ảnh: HD Wallpapers. |
Trong phòng thí nghiệm, Cacioppo và các đồng nghiệp đã khám phá ý tưởng này bằng cách cố ý gây ra cảm giác cô đơn ở nhiều sinh viên đại học hơn. Sử dụng phương pháp thôi miên và các kịch bản đã chuẩn bị sẵn, họ thay dẫn dắt những người tham gia quay lại các thời điểm trong đời mà họ từng cảm thấy gắn bó sâu sắc với người khác - hoặc cảm thấy cô đơn tột cùng. Sau đó, họ thực hiện các bài kiểm tra tâm lý và phát hiện ra rằng ngay cả những người thích giao du cũng thể hiện kỹ năng xã hội kém hơn một khi họ cảm thấy bị cô lập.
Trong một thí nghiệm, các đối tượng phải xác định màu sắc của các chữ cái tạo thành từ ngữ được hiển thị. Những đối tượng cô đơn đặt tên chậm hơn cho màu sắc gắn liền với các từ xã hội, chẳng hạn như “cạnh tranh” (compete) và thậm chí còn chậm hơn nếu từ có tính xã hội có liên tưởng đến cảm xúc tiêu cực, chẳng hạn như “từ chối” (reject).
Cacioppo viết: “Sự chậm trễ cho thấy hiệu ứng nhiễu. Ngay cả khi nhiệm vụ không liên quan gì đến xã hội và người tham gia không hề ý thức mình đang làm điều gì liên quan, họ vẫn tìm kiếm - và bị phân tâm bởi - các tín hiệu xã hội tiêu cực.” Khi bạn cần kết nối xã hội nhất, thì hóa ra lại là lúc bạn ít có khả năng đạt được nó nhất.
Bằng cách sử dụng MRI cộng hưởng chức năng, Cacioppo cũng phát hiện ra rằng não bộ của những người cô đơn phản ứng mạnh mẽ hơn với các tín hiệu xã hội tiêu cực so với các tín hiệu tiêu cực không mang tính xã hội. Cacioppo tin rằng “vòng lặp cô đơn” này đã kích hoạt các cơ chế sinh học thần kinh và hành vi góp phần gây ra tình trạng sức khỏe kém.