Lãi suất cho vay tiền Đồng trên kênh liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm đã chạm mốc 8,44%/năm. Ảnh: Hoàng Hà. |
Số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước cho biết lãi suất cho vay Đồng Việt Nam trên thị trường liên ngân hàng đang ghi nhận những biến động mạnh nhất một thập niên trở lại đây.
Cụ thể, phiên giao dịch gần nhất (5/10) đã ghi nhận lãi suất cho vay qua đêm chạm mốc 8,44%/năm. So với phiên liền trước, mức lãi suất qua đêm này đã tăng 0,56 điểm % và cao hơn 3,46 điểm % so với một tuần trước.
Đà tăng mạnh kể trên đã đưa lãi suất cho vay liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm lên vùng cao nhất kể từ năm 2012, trước khi NHNN áp dụng cơ chế hạn mức tăng trưởng tín dụng với hệ thống ngân hàng thương mại.
Bên cạnh lãi suất qua đêm, các kỳ hạn 1 tuần; 2 tuần và 1 tháng cũng ghi nhận mức tăng tương tự sau một tuần, hiện đạt lần lượt 9,48%/năm (+3,96%); 8,47%/năm (+3.16%) và 7,69%/năm (+1,76%).
Đáng chú ý, do đây là mức lãi suất bình quân khoản tiền cho vay chéo giữa các ngân hàng, nên trên thực tế, sẽ có những khoản cho vay với lãi suất cao hơn mức 8,44%/năm này.
Thực tế, lãi suất cho vay liên ngân hàng mới chỉ tăng đột biến khoảng một tuần gần đây, đưa mặt bằng lãi suất qua đêm từ vùng 5%/năm lên 8,44%/năm hiện tại và lãi suất kỳ hạn 1 tuần đến 3 tháng tăng từ vùng 5-6%/năm lên 8-9%/năm.
Các mốc lãi suất cho vay kể trên cũng đang cao hơn rất nhiều so với lãi suất tiền gửi trên thị trường 1 (ngân hàng với cư dân) áp dụng với cả những kỳ hạn dài trên 12 tháng.
LÃI SUẤT LIÊN NGÂN HÀNG TĂNG DỰNG ĐỨNG | ||||||||||||||||||||||||
Nguồn: NHNN; Tổng hợp | ||||||||||||||||||||||||
Nhãn | 5/9 | 6 | 7 | 8 | 9 | 12/9 | 13 | 14 | 15 | 16 | 19/9 | 20 | 21 | 22 | 23 | 26/9 | 27 | 28 | 29 | 30 | 3/10 | 4 | 5 | |
Qua đêm | %/năm | 5.21 | 5.71 | 6.88 | 5.9 | 4.62 | 4.29 | 4.2 | 4.17 | 4.21 | 4.25 | 4.26 | 4.61 | 4.68 | 4.89 | 5.08 | 5.12 | 5.16 | 5.06 | 4.98 | 4.93 | 5.26 | 7.88 | 8.44 |
1 tuần | 5.21 | 5.63 | 6.83 | 6.09 | 4.55 | 4.47 | 4.43 | 4.48 | 4.39 | 4.5 | 4.39 | 4.71 | 5 | 5.15 | 5.34 | 5.55 | 5.5 | 5.52 | 5.52 | 5.48 | 5.45 | 6.43 | 9.48 | |
2 tuần | 4.86 | 5.68 | 5.85 | 6.72 | 5.02 | 4.48 | 4.61 | 4.06 | 4.81 | 4.4 | 4.32 | 5.11 | 5.08 | 5.31 | 5.39 | 5.47 | 5.46 | 5.64 | 5.31 | 5.59 | 5.1 | 7 | 8.47 |
Hiện tại, mức lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng cao nhất các ngân hàng thương mại đưa ra mới vào khoảng 8%/năm, áp dụng với những khoản tiền gửi online của khách hàng cá nhân.
Diễn biến kể trên cho thấy các ngân hàng thương mại đang gặp căng thẳng cục bộ về mặt thanh khoản ngắn hạn. Để bù đắp vào phần thiếu hụt này, một mặt các ngân hàng phải chấp nhận vay mượn nhau với lãi suất rất cao, mặt khác phải tăng lãi suất trên thị trường 1 để huy động vốn từ cư dân.
Theo các chuyên gia phân tích, diễn biến kể trên có nguyên nhân từ việc NHNN đã bán ra lượng lớn USD để ổn định thị trường ngoại tệ, qua đó rút về lượng tiền Đồng tương ứng.
Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) ước tính kể từ sau quyết định nâng lãi suất điều hành (23/9), NHNN vẫn phải bán ra gần 1,9 tỷ USD để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trong hệ thống và kìm đà tăng của tỷ giá.
Trong khi đó, Công ty Chứng khoán SSI ước tính cơ quan quản lý tiền tệ đã hút ròng hơn 58.000 tỷ đồng thông qua kênh bán ngoại tệ trong 2 tuần gần nhất, đồng nghĩa với việc NHNN đã bán khoảng 2,45 tỷ USD ra thị trường.
Công ty Chứng khoán ACB (ACBS) ước tính cơ quan quản lý tiền tệ đã bán khoảng 20 tỷ USD từ đầu năm, qua đó rút về lượng lớn tiền Đồng.
Việc NHNN phân bổ thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thời gian qua cũng khiến nhu cầu tiền Đồng tăng lên trong hệ thống, từ đó đẩy mặt bằng lãi suất tăng cao.
Ngoài ra, lãi suất liên ngân hàng tăng “nóng” cũng đến từ việc NHNN chủ động kiểm soát thanh khoản hệ thống ở mức vừa phải. Chứng khoán SSI cho biết trong tuần trước (26-30/9), NHNN đã giảm đáng kể lượng tiền Đồng bơm ra thị trường thông qua kênh tín phiếu.
Các chuyên gia tại đây dự báo NHNN sẽ duy trì thanh khoản trên hệ thống ngân hàng ở trạng thái không quá dồi dào trong giai đoạn còn lại của năm để duy trì mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức cao. Từ đó tạo mức chênh lệch hợp lý với lãi suất USD, giảm thiểu áp lực lên tỷ giá.