Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Khủng hoảng tiền kẽm ở Đàng Trong

Việc lưu hành đồng tiền cũng rất rộng rãi, không có luật lệ gì bó buộc cả. Khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa vẫn dùng tiền đã lưu hành ở Bắc Hà.

Tiền xu kim loại được các triều đại phong kiến Việt Nam dùng phổ biến. Ảnh: thegioitien.

Ở xứ Đàng Trong cũng như xứ Đàng Ngoài chưa có tiền tệ bằng giấy, mà chỉ có tiền bằng kim loại như đồng, kẽm, và các thoi vàng, thoi bạc, nén vàng, nén bạc. Loại vàng và bạc chỉ dùng cho Nhà nước để giao dịch với các nước, và các nhà giàu làm của tích trữ. Tiền đồng, tiền kẽm mới là loại tiền tệ thông dụng trong dân chúng và đóng thuế cho Nhà nước.

Hình dáng đồng tiền bằng kim loại gì, đúc tại Trung Hoa hay tại nước ta đều theo một kiểu giống nhau là hình tròn, đường kính lớn nhỏ khác nhau, nhưng thông thường là khoảng 2 cm. Ở chính giữa có một lỗ nhỏ hình vuông, mỗi cạnh khoảng 4 mm, nhưng thực tế do kỹ thuật đúc lỗ ấy hình tròn, dùng để xâu vào dây lạt bằng giang hay bằng mây.

Đồng tiền có hai mặt, mặt trước (hay mặt ngửa) và mặt sau (hay mặt sấp). Mặt trước có đường gờ mé ngoài, rộng độ 1,5 mm, xung quanh lỗ ở giữa có đường gờ hình vuông, rộng khoảng 1,5 mm. Ở khoảng giữa hai đường gờ đúc nổi bốn chữ Hán, chữ phía trên và phía dưới là niên hiệu của vị vua đương thời như Gia Long, hai chữ hai bên là thông (bên phải) bửu (bên trái). Mặt sau để trơn, cũng có đồng có đúc hai chữ Hán khác.

Việc lưu hành đồng tiền cũng rất rộng rãi, không có luật lệ gì bó buộc cả. Khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa vẫn dùng tiền đã lưu hành ở Bắc Hà. Dân chúng đóng thuế cũng dùng các loại tiền ấy. Có khi người ta dùng cả các loại tiền đồng của các triều đại phong kiến Trung Hoa xen lẫn với đồng tiền của các triều đại nước ta từ vua Lê Đại Hành trở đi.

[...]

Từ khi Trịnh - Nguyễn cắt đứt liên lạc với nhau, sông Gianh là giới tuyến phân cách hai miền, các chúa Nguyễn phải tự đúc tiền để có đủ chi dùng trong xứ. Do đó khi người nào mới được lên ngôi chúa, thì cứ theo mẫu tiền cũ mà đúc, vì bấy giờ các chúa Nguyễn vẫn còn dùng niên hiệu của nhà Lê, nên bản thân mỗi vị chúa Nguyễn chưa có niên hiệu, phải lấy các niên hiệu cũ mà đúc tiền. [...]

Khi viết Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn không hiểu loại tiền có ghi mấy chữ Yên Pháp, Thái Bình do ai đúc mà nghe người ta nói của họ Mạc, đã gán cho họ Mạc của Mạc Đăng Dung và ghi “được lưu hành vào hạt Thuận Hóa”. Lại viết thêm về các loại tiền chúa Nguyễn đúc, “ở khoảng nhỏ đồng tiền cũng đề hai chữ Thái Bình”. Thực tế loại tiền ấy do Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên đúc từ năm 1736 khi được chúa Nguyễn cử làm Đô đốc trấn thủ Hà Tiên và sai mở cục đúc tiền để tiện cho việc buôn bán.

Vì kim loại đồng trong xứ khan hiếm, những kẻ gian manh thường lén phá tiền đồng để đúc các vật dụng cao cấp, nên số tiền đồng cũ càng ngày càng hao hụt đi. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát năm Bính Dần (1764), nghe theo lời người khách buôn Trung Hoa họ Hoàng, mua kẽm của người Hòa Lan về đúc tiền, mở xưởng đúc tiền ở xã Lương Quân.

Cứ 100 cân kẽm giá trị 8 quan tiền, ngoại trừ các phí tổn về nhân công và ăn uống, than củi, người ta còn được số tiền là 20 quan. Tính trong ba năm Bính Dần (1746), Đinh Mão (1747) và Mậu Thìn (1748), số tiền đúc được là 72.396 quan. Về chữ và khuôn vành chung quanh đồng tiền, người ta dùng kiểu mẫu đồng tiền Tường Phù nhà Tống. Lúc mới đúc xong, đồng tiền trông có vẻ dày dặn và bền. Tuy có thể đốt tiền này được, nhưng không bẻ gãy được.

Sau lại đúc thêm tiền Thiên Minh thông bửu. Bấy giờ Nhà nước lại bãi bỏ lệnh cấm đúc tiền riêng, nhưng cũng ít người dám đúc lậu, cho nên công, tư tiêu tiền kẽm cũng rất tiện lợi. Còn tiền đồng Nhà nước tích trữ lại, không cấp phát ra nữa. Vì thế, khi quân Trịnh vào chiếm Thuận Hóa, tịch thu các kho công, tìm thấy số tiền xâu bằng lõi mây đến ngoài 30 vạn quan.

Các thứ tiền này đã được lựa chọn cẩn thận, không lẫn lộn một đồng tiền xấu nào. Trước kia một đồng tiền kẽm ngang một đồng tiền đồng, đến 1777 thì phải 3 đồng tiền kẽm mới đổi được một đồng tiền đồng, nhưng người ta không tin dùng tiền kẽm nữa. Ngay những khách có thuyền buôn các nước ngoài đều không muốn lấy thứ tiền ấy. Họ cứ đem gạo muối đổi lấy vàng, bạc và các thứ hàng hóa tạp vật rồi dong buồm đi nơi khác.

Lại còn cái tệ các kẻ gian manh mua kẽm về, rồi đúc trộm tiền ở những nơi đầu non, eo biển hẻo lánh, không ai có thể khám xét, hỏi han đến. Họ lấy kẽm bỏ vào nồi đất đun lửa từ từ cho kẽm chảy ra, rồi lấy muổng múc đổ vào khuôn đúc tiền. Khi lấy tiền ra, chỉ xoay qua một vòng. Công việc rất giản dị. Ngay đến những người xóm giềng cũng không hay biết. Như vậy những kẻ làm việc phạm pháp kiếm lợi riêng không bao giờ chấm dứt được.

Vì thế, trong những phiên chợ, người ta thấy những đồng tiền kẽm mới đúc mỏng manh nhỏ bé lẫn lộn vào. Do đó mà trên đất Gia Định có sự kén chọn đồng tiền, gây trở ngại cho việc lưu hành. Tháng 11 năm Kỷ Dậu (1789) Nguyễn Ánh phải ban lệnh cấm:

Phàm quan thu thuế và chợ búa đổi chác, dùng tiền không kể sứt mẻ, hễ còn có thể xâu lạt được đều cho thông dụng, ai chọn bỏ bị tội. Quan, quân, dân phạm cấm đều đánh 50 roi. Quan thì xử biếm bãi. Quân thì sung hỏa đầu (nấu bếp) một năm. Dân thì đóng xiềng sung dịch phu một năm. Phụ nữ thì sung phường giã gạo một năm. Ai tố cáo đúng thực thì thu tiền ở kẻ phạm 10 quan mà thưởng cho. Kẻ nào vu cáo thì bị phản tọa (bị tội như kẻ phạm).

Nguyễn Đình Tư / NXB Tổng hợp TP.HCM

SÁCH HAY