Phải chăng loài cá lớn và hiếm nhất sông Trường Giang đã mất khả năng sinh sản?
Hai nghiên cứu về khả năng thoái hóa cơ quan sinh dục ở cá tầm Trung Quốc - một loài săn mồi nước ngọt có thể phát triển lớn như cá mập - đã tạo ra một cuộc tranh luận gay gắt và vẫn chưa đi đến kết luận.
Một bên là đội nghiên cứu đến từ Bộ Thủy lợi Trung Quốc, một bên là nhóm các nhà nghiên cứu từ Học viện Khoa học Trung Quốc.
Ở giữa - cũng là đối tượng nghiên cứu - là một loài cá có thể dài tới 5 m và xuất hiện từ thời đại khủng long, theo các nghiên cứu hóa thạch, nhưng đang suy giảm nhanh chóng.
Nghiên cứu từ Bộ Thủy lợi
Vào đầu thế kỷ 20, cá tầm được tìm thấy trên khắp Đông Á, từ đồng bằng Châu Giang ở miền Nam Trung Quốc đến bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản.
Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, bất chấp những nỗ lực giải cứu, cá tầm đang biến mất, ngoại trừ ở sông Trường Giang, con sông lớn nhất Trung Quốc.
Một nhóm nghiên cứu do giáo sư Huang Zhenli thuộc Viện Nghiên cứu Nguồn nước và Thủy điện của Bộ Thủy lợi Trung Quốc, đặt ra nghi vấn liệu những thay đổi trong tuyến sinh dục của cá tầm có phải là một yếu tố dẫn đến sự suy giảm hay không.
Họ sử dụng một mô hình mới để ước tính sự trưởng thành của tuyến sinh dục trong các mẫu cá tầm Trung Quốc được thu thập từ đầu những năm 1980 cho đến nay.
Trong số đó, hơn 70% mẫu cho thấy các mức độ thoái hóa khác nhau. Những con cá này không thể sản xuất trứng hoặc tinh trùng khi đến tuổi trưởng thành vì tuyến sinh dục của chúng kém phát triển.
Trong một bài báo đăng trên Tạp chí Khoa học về Sông hồ đầu tháng 12/2020, giáo sư Huang và các đồng nghiệp cho biết nguyên nhân chính của sự thoái hóa này là do Cát Châu Bá (Gezhouba), đập thủy điện đầu tiên trên sông Trường Giang được xây dựng vào những năm 1980. Họ nói rằng vấn đề này "đã bị bỏ qua hoặc ít được chú ý đến".
Hàng triệu con cá tầm con được nuôi nhân tạo đã được thả vào sông Trường Giang trong hai thập kỷ qua, nhưng không có nhiều tác dụng. Ảnh: Simon Song. |
Mỗi mùa hè, những con cá tầm sống ở biển Hoa Đông sẽ bơi về sông Trường Giang. Chúng di chuyển quãng đường gần 3.000 km để đến Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên đẻ trứng.
Nhưng đập Cát Châu Bá ở Nghi Xương đã chặn ngang con đường này, khiến những con cá không còn cách nào khác ngoài giao phối ở vùng nước lạ. Điều này đã ảnh hưởng đến hệ sinh sản của loài.
Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu không tìm thấy trứng, tinh trùng hoặc cá tầm con ở sông Trường Giang, làm dấy lên lo ngại về sự tuyệt chủng sắp xảy ra của loài cá này.
Nghiên cứu từ Học viện Khoa học Trung Quốc
Một nghiên cứu khác, do giáo sư Liu Huanzhang từ Viện Thủy văn của Học viện Khoa học ở Vũ Hán dẫn đầu, cho thấy sự thoái hóa mà nhóm của giáo sư Huang quan sát được thực ra là sự thay đổi các mô sinh sản của cá ở các giai đoạn khác nhau trong vòng đời của chúng.
Sau khi đẻ trứng hoặc phóng tinh trùng, các cơ quan sinh dục của cá tầm sẽ co lại. Các mẫu thí nghiệm trong nghiên cứu của ông Huang rất có thể là các cá thể đã giao phối này, theo bài viết của giáo Liu và các đồng nghiệp đăng trên tạp chí Acta Hydrobiologica Sinica tháng 12/2020.
Báo cáo cho biết không có bằng chứng nào cho thấy việc xây dựng đập Cát Châu Bá gây ra bất kỳ thay đổi đáng chú ý nào trong tuyến sinh dục của cá tầm, và giáo sư Huang cùng đồng nghiệp chỉ đang "sử dụng trí tưởng tượng để dựng nên câu chuyện".
Cá tầm nuôi nhân tạo được thả vào sông Dương Tử. Ảnh: Getty Images. |
Theo nhóm này, sự suy giảm của cá tầm là do một con đập khác - đập Tam Hiệp - gây ra những thay đổi bất thường về nhiệt độ ở vùng hạ lưu Trường Giang.
Cá tầm cực kỳ nhạy cảm với nhiệt độ nước trong mùa sinh sản và kể từ khi đập Tam Hiệp bắt đầu hoạt động vào cuối những năm 2000, số lượng cá tầm ở vùng hạ lưu đã giảm mạnh - chỉ còn khoảng vài trăm con, theo nghiên cứu.
Về phần này, nhóm của giáo sư Huang cho biết học viện "phải chịu trách nhiệm về thiệt hại nghiêm trọng đối với cá tầm Trung Quốc do sự cẩu thả và coi nhẹ vấn đề của họ".
Ông Zhang Boting, một nhà khoa học về đập thủy điện của Trung Quốc và không tham gia vào cả hai nghiên cứu này, cho biết các nhà nghiên cứu có thể cần phải cân nhắc việc gạt cuộc tranh luận sang một bên và tìm ra một số cách nhanh chóng, hiệu quả để cứu loài cá.
Xây dựng một đường đi riêng cho cá không thực sự là một lựa chọn bởi vì nó sẽ rất dốc và có lẽ không con cá nào có thể bơi ngược dòng.
Một ý tưởng khả thi hơn là thay đổi cách hoạt động của các con đập để khôi phục nhiệt độ gần với tự nhiên hơn ở vùng nước hạ lưu trong mùa giao phối của cá tầm.
“Chúng tôi cũng có thể bơm oxy vào nước tại các điểm xả lũ của đập. Một số bằng chứng cho thấy cá tầm chết do thiếu oxy", ông nói.
Hoạt động của con người được cho là nguyên nhân chính đằng sau sự biến mất của cá tầm Trung Quốc ở Đông Á, tuy nhiên một số nhà nghiên cứu cũng nghi ngờ biến đổi khí hậu cũng là một nguyên nhân.
Bắc Kinh đã khởi động một chương trình bảo vệ loài cá này trên toàn quốc khi tiến độ xây dựng đập thủy điện vào những năm 1990 khiến họ lo ngại về sức khỏe của loài cá.
Hàng triệu con cá tầm con được nuôi nhân tạo đã được thả vào sông Trường Giang trong hai thập kỷ qua, nhưng không có nhiều tác dụng. Cá tầm Trung Quốc dành 15 tháng ở sông Trường Giang để giao phối, không ăn gì cho đến khi chúng quay trở lại bờ biển.