Dưới đây là toàn bộ nội dung bài viết của đại sứ Việt Nam Nguyễn Xuân Thủy trên Jakarta Post.
Trong bài viết gần đây, ông Liu Hongyang, thường vụ viên của Đại sứ quán Trung Quốc tại Indonesia, ngang nhiên tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là "lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc". Tôi buộc phải đưa ra những luận điểm sau để bác bỏ những thông tin sai lệch của ông Liu.
Trước tiên, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và các cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các tài liệu lịch sử chính thức đều cho thấy rõ Việt Nam đã thực thi chủ quyền tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa một cách hòa bình và liên tục ít nhất trong thế kỷ 17.
Một minh chứng rõ ràng cho thấy Việt Nam đã củng cố chủ quyền với hai quần đảo trên là việc vua Minh Mạng cho xây dựng một ngôi chùa vào năm 1835 và đặt tượng đá trên quần đảo Hoàng Sa.
Tàu Trung Quốc sử dụng vòi rồng tấn công tàu cá Việt Nam tại vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Ảnh: AP. |
Về phía Trung Quốc, họ cho thấy Bắc Kinh không có ý định tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa. Trái lại, nhiều bản đồ mô tả lãnh thổ của Trung Quốc dưới triều đại Nhà Thanh đều xem đảo Hải Nam là cực nam của Trung Quốc. Một trong những bản đồ này chính là quà của Thủ tướng Angela Merkel tặng cho Chủ tịch Tập Cận Bình khi ông sang thăm Đức hồi tháng 3.
Hơn nữa, tại Hội nghị Hòa bình San Francisco vào tháng 9/1951 với sự tham dự của lãnh đạo 51 quốc gia, nhằm giải quyết vấn đề lãnh thổ hậu Thế chiến II, các nước đã công nhận Trường Sa và Hoàng Sa là hai quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Một điều thú vị cần nhấn mạnh tại hội nghị San Francisco là 46/51 quốc gia đã bác bỏ đề xuất sửa đổi cho Hiệp ước Hòa bình San Francisco, trong đó công nhận chủ quyền của Trung Quốc với Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngoài ra, các bên tham gia Hội nghị Geneva năm 1954 về khôi phục hòa bình ở Đông Dương mà Trung Quốc cũng là một trong số này, đã xác nhận và tôn trọng sự độc lập và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
Với tư cách là một nước tham gia hội nghị, Pháp tuân thủ Hiệp ước San Francisco và rút lực lượng ra khỏi Việt Nam vào năm 1956.
Năm 1974, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm quần đảo Hoàng Sa. Đó là sự thật không thể chối cãi. Hành vi xâm lược của họ đã vi phạm quy chuẩn tối thiểu của luật quốc tế về cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế theo Điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Xuất phát từ sự vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, việc hiện nay Bắc Kinh chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa là vô giá trị, bất chấp người Trung Quốc đã ở đó trong bao lâu và dùng những biện pháp gì để thực thi quyền quản lý.
Từ góc độ pháp lý và lịch sử, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa là vô căn cứ. Do đó, lập trường của ông Liu rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Quốc là sai.
Tấm bản đồ cổ Trung Quốc trong đó không có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà Thủ tướng Angela Merkel tặng Chủ tịch Tập Cận Bình trong chuyến công du Trung Quốc hồi tháng 4. Ảnh: Veooz. |
Thứ hai, ông Liu đã cố tình trích dẫn sai công thư ngày 14/9/1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng như một sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa.
Trong công thư, cố thủ tướng không đề cập đến vấn đề lãnh thổ của Trung Quốc cũng như hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông chỉ ghi nhận và tán thành tuyên bố về vùng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.
Hơn nữa, những tuyên bố về việc Trung Quốc không có tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa là trái với những điều mà các nhà lãnh đạo nước này công nhận. Ví dụ, vào tháng 9/1975, phó thủ tướng Trung Quốc lúc bấy giờ là Đặng Tiểu Bình đã nói với bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn rằng, hai bên (Việt Nam và Trung Quốc) có quan điểm khác nhau về Hoàng Sa và Trường Sa và vấn đề cần được giải quyết thông qua đàm phán. Tuyên bố này đã được ghi lại trong bản ghi nhớ bổ sung của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12/5/1988.