Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Chàng trai phát hiện từ vựng tiếng Anh là biểu đồ minh hoạ

Cả tôi và các học viên đều nhất trí rằng một số từ tiếng Anh chính là biểu đồ minh họa. Chẳng hạn từ look [nhìn] - hai chữ o giống như cặp mắt.

Chúng tôi tiếp tục thực hành bài tập này trong các buổi học tiếp theo. Chúng tôi tìm thấy từ car [ôtô] trong từ chair [cái ghế], wet [ẩm ướt] trong towel [khăn tắm], còn từ window [cửa sổ] dần dần dẫn chúng tôi đến từ interview [phỏng vấn]. Và khi vốn từ vựng của học viên nhiều lên, lòng tự tin của họ cũng theo đó mà tăng cao dần.

Bầu không khí trong lớp trở nên nhẹ nhàng hơn, dường như chỉ cần qua một buổi học nữa là có thể trông thấy sự tiến bộ. Ngay cả những người kém tiếng Anh nhất cũng bắt đầu viết và nói nhiều hơn. Vậy đấy, học viên nhiệt tình chắc chắn sẽ không trở thành học viên dốt.

Tieng Anh anh 1

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Inlingua Washington DC.

Cả tôi và các học viên đều nhất trí rằng một số từ tiếng Anh chính là biểu đồ minh họa. Chẳng hạn từ look [nhìn] - hai chữ o giống như cặp mắt; và các chữ cái trong từ dog [con chó] phác họa chính hình ảnh của một chú chó - chữ d trông giống như hình một cái đầu đang ngoảnh về bên trái, còn chữ g giống hình chiếc đuôi.

Chúng tôi cũng ngưỡng mộ sự đối xứng vô cùng phù hợp của từ level [thăng bằng]. Một số từ là sự minh họa về thị giác: khi che đi chân thứ ba của chữ m trong từ moon [mặt trăng], ban đêm sẽ biến thành ban ngày, bởi vì lúc này ta sẽ có từ noon [buổi trưa].

Từ desserts [món tráng miệng] có thể khiến chúng ta chảy nước miếng vì thèm thuồng, hay khiến chúng ta cảm thấy khô miệng, tùy vào việc chúng ta đọc từ này theo hướng nào, từ trái sang phải hay từ phải sang trái. Lại có những từ giống như những hình ảnh liên tiếp trong một cuốn sách lật (1). Hãy xem vị trí của chữ T dịch chuyển như thế nào: Stain [vết ố] Satin [vải satin] Saint [vị thánh].

(1) Sách lật (flip book): Một tập sách nhỏ gồm một loạt hình ảnh thay đổi dần dần từ trang này sang trang khác, do đó khi các trang được xem liên tiếp nhanh chóng (bằng cách dùng tay vuốt vào cạnh của cuốn sách), các hình ảnh sẽ tạo ra cảm giác chuyển động như đang xem một chuỗi hình ảnh động hoặc một bộ phim ngắn (ND).

Tôi dành cả một buổi học để giảng giải về một loại từ mà có lẽ tôi sẽ xếp vào nhóm theo trường phái ấn tượng. Đó là những từ có thể khiến chúng ta đảo con mắt, tròng ghẹo lỗ tai của chúng ta, hay kích thích lưỡi của chúng ta. Những từ mà chỉ cần chúng ta nhìn thấy, nghe thấy, và nói lặp đi lặp lại chúng, chúng ta sẽ cảm nhận được một phong vị riêng.

Lấy ví dụ là từ slant [nghiêng], tôi nói, và viết từ này lên bảng. Birute có biết từ này không? Không. Chưa có người nào trong lớp từng đọc hoặc nghe thấy từ này trước đây. Điều này lẽ ra đã có thể khiến họ cảm thấy nôn nóng bứt rứt, nhưng thực tế không diễn ra như vậy.

Tâm trạng hồi hộp của giáo viên mới trong tôi đã bớt dần, và với sự hỗ trợ phiên dịch của Birute, tôi chắc chắn rằng mình có thể kiểm soát lớp rất tốt. Tôi hoàn toàn giữ thế chủ động ở đây. Vì thế tôi nói, “Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về từ slant nhé. Từ slant thuộc nhóm hình ảnh nào?

Các chữ cái trong từ này, và các âm thanh tương ứng với chúng, khiến chúng ta có ấn tượng rằng từ này có liên hệ với một thứ gì đó nặng hay nhẹ? Hay là thứ gì đó mờ nhạt? Bóng bẩy? Êm mượt?” (Một phần công việc dạy ngôn ngữ là gợi ý để học sinh đoán, khoanh vùng những phán đoán của học sinh).

Cả lớp đưa ra rất nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng hình ảnh và âm thanh của từ này khiến họ liên tưởng đến một điều tiêu cực chứ không phải là điều tích cực, một điều thiên về hướng nặng. Tôi tiến về phía vị trí bên cạnh từ slant trên bảng và tiếp tục viết ra các từ sleep [ngủ], slide [trượt], slope [dốc], và slump [sụt giảm]. Tất cả những từ này có điểm gì chung? Có rất nhiều điểm chung, cả về mặt thị giác và âm thanh. Các từ này đều có cùng độ dài, đều bắt đầu bằng tổ hợp sl, và kết thúc bằng chữ p, t, hay d.

Còn về ý nghĩa của từ? Tôi giơ tay trái lên ngang tầm mắt rồi hạ tay xuống. Sleep: một người đang đứng hoặc đang ngồi nằm xuống. Slide slope: chiều hướng xuống. Slump: giá cổ phiếu của một công ty sụt giảm. Các từ này tạo thành một bức liên họa, một chuỗi các hình ảnh có liên quan đến nhau. Vậy thì từ slant là sao đây? Các học viên giơ tay lên rồi hạ tay xuống. “Giống như thế này”, tôi nói rồi lại giơ tay trái lên lần nữa và hạ xuống theo đường chéo. Tay tôi trở thành người phiên dịch cho từ slant.

Tôi dùng ngón tay trỏ của bàn tay trái vẽ một vòng tròn quanh mũi và miệng mình. “Smell [ngửi]”, tôi nói. “Smile [cười]”. Tôi cười. “Smirk [cười khinh miệt]”. Tôi tạo biểu cảm trên mặt. “Smoke [hút thuốc]”. Tôi làm động tác đưa điếu thuốc lá lên miệng. “Smother [ngạt thở]”. Tôi đưa lòng bàn tay lên che miệng lại. “Sneeze [hắt xì]”. Tôi giả vờ hắt xì. “Snore [ngáy]”. Tôi giả vờ ngáy. “Sniff [ngửi]”. Tôi vừa nói vừa khịt khịt mũi. “Sneer [cười nhếch mép]”. Tôi vừa nói vừa cười nhếch mép. Vậy là lại có một bức liên họa bằng từ nữa ra đời.

Snail [ốc sên]”, Birute nói. “Vậy còn từ snail thì sao?”

“Giống như lưỡi vậy”, tôi nói. “Lưỡi có vỏ”. Cả lớp rộ lên cười. Sau khi tiếng cười lắng xuống, tôi nói thêm, “Dĩ nhiên, không phải từ nào cũng khớp với một khung cụ thể”.

Nhưng nhiều từ quả thực là khớp như vậy.

Daniel Tammet/NXB Trẻ

Bình luận

SÁCH HAY