Tạp chí The Diplomat đăng nhận định của Giáo sư Carl Thayer về cuộc chiến truyền thông và pháp lý mà Trung Quốc đang áp dụng trong tranh chấp trên Biển Đông vào ngày 16/6. Zing.vn lược dịch nội dung bài viết.
Ngày 9/6, Trung Quốc bất ngờ mở ra một mặt trận mới khi ông Vương Minh - phó đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, trình lên Tổng thư ký Ban Ki Moon văn bản bày tỏ quan điểm chính thức về vấn đề tranh chấp trên Biển Đồng. Ông Vương đề nghị Tổng thư ký chuyển tài liệu đến tất cả 193 thành viên Liên Hiệp Quốc.
Việc Trung Quốc quốc tế hóa tranh chấp với Việt Nam không phản ánh sự thay đổi trong chính sách bấy lâu của Bắc Kinh. Trung Quốc vẫn khẳng định họ chỉ giải quyết tranh chấp thông qua tham vấn song phương trực tiếp và tổ chức đàm phán giữa các nước liên quan. Một ngày sau khi Trung Quốc trình văn bản lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nói Bắc Kinh phản đối Liên Hiệp Quốc phân xử tranh chấp giữa họ với Việt Nam.
Giáo sư Carl Thayer. Ảnh: Reuters |
Vậy Trung Quốc đem vấn đề tranh chấp ra Liên Hiệp Quốc làm gì?
Năm 2003, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân ủy Trung ương chính thức thông qua học thuyết “chiến tranh ba mặt”. Theo Timothy A. Walton - một chuyên gia của Cơ quan Nghiên cứu, Tư vấn và Phân tích Delex và cũng là tác giả cuốn Chiến tranh ba mặt của Trung Quốc - học thuyết bao gồm ba phương diện: chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh pháp lý.
Chiến tranh truyền thông, theo Walton, là chiến thuật tác động đến công luận quốc tế nhằm lôi kéo sự ủng hộ đối với Trung Quốc, đồng thời làm nhụt chí mọi bên muốn cản trở lợi ích của họ.
Trung Quốc gửi văn bản tới Liên Hiệp Quốc nhằm tấn công nỗ lực tuyên truyền của Việt Nam và cô lập Việt Nam. Phần lớn các nước thành viên Liên Hiệp Quốc không có lợi ích trực tiếp trong tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông. Những nước Đông Nam Á vốn lo ngại về hành động của Trung Quốc sẽ né tránh việc đưa ra quan điểm công khai.
Cũng theo Walton, trên mặt trận pháp lý, Trung Quốc sử dụng luật nội địa và quốc tế để củng cố nền tảng pháp lý nhằm khẳng định quyền lợi. Khi phái đoàn Trung Quốc gửi văn bản lên Liên Hợp Quốc, họ còn gửi kèm những tài liệu chọn lọc về các điều luật quốc tế có lợi cho Trung Quốc.
Ban đầu, Trung Quốc bảo vệ việc đưa giàn khoan vào lãnh hải của Việt Nam bằng lập luận giàn khoan hoàn toàn nằm trong vùng biển của họ. Trung Quốc chỉ ra rằng Hải Dương 981 nằm trong vùng cách 17 hải lý từ đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam). Trong khi đó, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển quy định vùng lãnh hải chỉ kéo dài trong khoảng 12 hải lý từ đường cơ sở ven biển của một nước.
Tàu cảnh sát biển Trung Quốc bảo vệ hoạt động trái phép của giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam. Ảnh: Reuters |
Ngày 6/6, Trung Quốc vội vàng sửa chữa lại sai sót khi nói giàn khoan Hải Dương 981 hoàn toàn nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc. Tuy nhiên, tuyên bố mới lại thiếu cơ sở pháp lý. Theo UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp là để một quốc gia “thực hiện các quyền kiểm soát cần thiết khi: (a) ngăn chặn hành vi phạm luật và quy định hải quan, tài chính, xuất nhập cảnh, dịch tễ trong lãnh thổ hoặc lãnh hải nước đó; (b) trừng phạt các trường hợp vi phạm luật và quy định trên phạm vi lãnh thổ hoặc lãnh hải một nước”.
Trung Quốc cũng cố gắng “tung hỏa mù” tranh chấp với Việt Nam khi lập luận vị trí Hải Dương 981 gần với quần đảo Hoàng Sa hơn bờ biển Việt Nam. Văn bản của Trung Quốc viết rằng Hải Dương 981 hoạt động trong vùng có bán kính 17 hải lý từ đảo Tri Tôn và từ đường cơ sở xung quanh quần đảo Hoàng Sa, so với khoảng hơn 150 hải lý từ bờ biển Việt Nam.
Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với bãi Scarborough - nơi vốn sát với Philippines hơn vùng đất gần nhất của Trung Quốc. Theo luật pháp quốc tế, tính lân cận không phải là yếu tố duy nhất để xác định chủ quyền.
Thực ra, văn bản Trung Quốc gửi tới Liên Hiệp Quốc làm suy yếu “chiến tranh pháp lý” mà họ áp dụng. Chẳng hạn, văn bản có đoạn:
“Vùng biển giữa quần đảo Hoàng Sa và bờ biển từ lục địa Việt Nam vẫn chưa phân định. Hai bên chưa thực hiện các hành vi phân định vùng Đặc quyền kinh tế (EE) và thềm lục địa trên những vùng biển đó. Cả hai đều có quyền tuyên bố chủ quyền EEZ và thềm lục địa phù hợp với UNCLOS”.
Nếu vậy, trong trường hợp này, Trung Quốc nên tuân thủ các điều sửa đổi của UNCLOS để giải quyết tuyên bố chủ quyền chồng lấn. Việt Nam và Trung Quốc nên bàn giải pháp tạm thời về khu vực tranh chấp cho đến khi hai bên đạt được thỏa thuận phân định. Trong giai đoạn đó, các bên không tiến hành thay đổi hiện trạng hoặc sử dụng vũ lực, đe dọa. Rõ ràng việc Trung Quốc điều giàn khoan Hải Dương 981 vi phạm các quan điểm về luật pháp quốc tế.
Giới chức Trung Quốc cũng tự làm suy yếu cơ sở pháp lý của họ khi lập luận rằng luật pháp quốc tế chẳng liên quan đến tranh chấp. Họ viết trong văn bản mà họ trình lên Liên Hiệp Quốc như sau: "Tuy nhiên, tất cả vùng biển này sẽ không bao giờ trở thành EEZ và thềm lục địa của Việt Nam dù chúng ta áp dụng những điều luật quốc tế".
Một nhân vật khác tham gia vào “chiến tranh truyền thông” của Trung Quốc là đại sứ của họ tại Australia, ông Ma Zhaozu. Ông Ma lặp lại luận điểm tương tự trong một bài bình luận trên tờ The Australian vào ngày 13/6, khi cho rằng vùng tranh chấp chưa được phân định và “dù áp dụng điều luật quốc tế nào chăng nữa thì nó sẽ không bao giờ trở thành EEZ và thềm lục địa của Việt Nam”.
Mô hình đảo nhân tạo mà Trung Quốc muốn xây ở đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: gywb.cn |
Những nước vốn lo ngại về căng thẳng leo thang giữa Việt Nam và tác động đến khu vực cần xem xét quan điểm mà Trung Quốc trình lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, sau đó nên đề nghị đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an.
Mỹ và Australia nên thúc đẩy một phiên tranh luận tại Hội đồng Bảo an. Nhật Bản và các cường quốc hàng hải có lợi ích từ sự ổn định trên Biển Đông cần tham gia vào cuộc tranh luận. Các bên không nên để cho Trung Quốc theo đuổi chiến tranh thông tin trên cả hai mục tiêu: vừa bày tỏ được quan điểm tới Liên Hiệp Quốc để chứng tỏ bản chất nghiêm trọng về tranh chấp với Việt Nam, vừa bác bỏ vai trò phân xử của Liên Hiệp Quốc.
Với những biện pháp như thế, Trung Quốc sẽ rơi vào tình thế không dễ chịu nếu họ phản đối các cuộc tranh luận của Hội đồng Bảo an, đồng thời cản trở Bắc Kinh lợi dụng Liên Hiệp Quốc trong mục đích tuyên truyền của họ nhưng lại dùng quyền phủ quyết để cản trở mọi nghị quyết chỉ trích hành động của Trung Quốc trên Biển Đông.