Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Các nhà khoa học tìm ra cách hoạt động của tâm trí con người thế nào?

Phương pháp xử lý thông tin cho phép các nhà tâm lý học nghiên cứu tác động của tâm trí như một đại lượng vật lý và do đó khoa học hơn.

Sự khác biệt cơ bản giữa tâm lý học và các ngành khoa học khác nằm ở đối tượng nghiên cứu. Theo truyền thống, các nhà khoa học nghiên cứu những đối tượng vật lý - nguyên tử, electron, tế bào và hành tinh - và các quá trình ảnh hưởng đến chúng. Sau đó, họ đưa ra kết luận và đề xuất lý thuyết dựa trên những quan sát của mình.

Các nghiên cứu nhận thức xoay quanh một đối tượng phi vật lý - tâm trí. Phương pháp xử lý thông tin cho phép các nhà tâm lý học nghiên cứu tác động của tâm trí như một đại lượng vật lý và do đó khoa học hơn. Sự tương đồng giữa máy tính với não bộ và chương trình máy tính với tâm trí nghĩa là các nhà tâm lý học có thể xem xét quá trình xử lý tinh thần từ một góc độ hoàn toàn khác với các nhà tâm lý học hành vi.

Sử dụng chương trình máy tính, họ có thể kiểm tra các giả thuyết về cách thức hoạt động của tâm trí và thậm chí cố gắng chỉ định các bước xử lý riêng lẻ. Thật vậy, nhiều khám phá mới đã được thực hiện bằng cách mô tả chức năng của não và tâm trí bằng cách sử dụng thuật ngữ máy tính.

Tam tri anh 1

Ảnh minh họa.Nguồn: Tek-life.

Khoa học hiện đại của tâm lý học được phát triển từ các triết gia vào cuối thế kỷ 19. Năm 1879, người được gọi là cha đẻ của tâm lý học hiện đại, Wilhelm Wundt (1832-1920), thành lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên ở Leipzig, Đức (xem tập Lịch sử Tâm lý học).

Wundt dựa trên việc xem xét nội tâm như một phương pháp nghiên cứu các quá trình tinh thần. Ông đã thiết lập các thí nghiệm phức tạp và khuyến khích mọi người xem xét các trải nghiệm ý thức của họ đã thay đổi như thế nào do kết quả của thí nghiệm. Bằng cách này, Wundt tin rằng ông có thể tìm ra cách hoạt động của tâm trí. Các nhà nghiên cứu dựa vào các báo cáo quan sát của mọi người - các nhà nghiên cứu không thể quan sát trực tiếp.

Các nhà tâm lý học sớm trở nên thiếu kiên nhẫn với việc xem xét nội tâm vì kết quả của những thí nghiệm như vậy có sai sót quan trọng theo hai hướng. Đầu tiên, nếu mọi người báo cáo trải nghiệm của họ sau khi thí nghiệm diễn ra, họ dựa vào trí nhớ.

David Hume cho rằng kiến thức về nhân quả trong một mối quan hệ dựa trên sự tích lũy kinh nghiệm chủ quan. Vì vậy khoa học, vốn quan tâm đến việc giải thích các sự kiện theo quan hệ nguyên nhân và kết quả, dựa trên những điểm yếu của chủ quan.

Trí nhớ là một quá trình mang tính suy diễn, có thể sai lầm và đôi khi là hư cấu. Thứ hai, người ta cảm thấy khó khăn khi quan sát những trải nghiệm có ý thức của chính họ. Họ không có quyền truy cập vào hoạt động bên trong của các quá trình tinh thần, chẳng hạn như nhận biết và phân loại, và do đó không thể giải thích chúng. Cuối cùng, xem xét nội tâm tạo ra những quan sát chủ quan, không khách quan.

Hãy tưởng tượng một quả táo trên bàn. Thông tin khách quan về quả táo bao gồm trọng lượng, độ chín của nó, và bất kỳ đặc điểm có thể đo đếm khác. Thông tin chủ quan sẽ là mùi vị, ký ức mà nó gây ra, ý tưởng về việc táo có thể được sử dụng để làm gì... Thông tin chủ quan là thông tin thiên vị, diễn giải cá nhân, trong khi thông tin khách quan là vô tư. Do đó thông tin khách quan có nhiều khả năng phản ánh tình trạng thực tế của quả táo. Vì lý do này, các nhà tâm lý học hiện đại dựa vào tính khách quan khi thực hiện những thí nghiệm của họ.

Các khái niệm Bẩm sinh

Các nhà tâm lý học không thể quan sát tâm trí giống như cách họ nhìn một quả táo. Tâm trí không tồn tại theo nghĩa vật chất. Vậy làm thế nào họ có thể nghiên cứu tâm trí một cách khách quan? Cách tiếp cận nhận thức xem xét tác động của tâm trí hơn là bản thân tâm trí.

Ví dụ, sợ nhện là một trải nghiệm chủ quan, nhưng có thể đo lường được sự mở rộng của đồng tử và sự gia tăng nhịp tim và nhịp thở, những biểu hiện vật lý của nỗi sợ hãi này. Từ đó một nhà khoa học có thể truy lại nguyên nhân chủ quan hoặc nguyên nhân trong tâm trí.

Các nhà tâm lý học nhận thức đã tìm cách loại bỏ những điểm yếu của các lý thuyết như sự xem xét nội tâm của Wundt và các trường phái tâm lý học sau này. Họ bị ảnh hưởng bởi một số nhà tư tưởng lỗi lạc, trong số đó có nhà toán học và triết học người Pháp René Descartes (1596-1650), các nhà triết học người Anh John Locke (1632-1704) và David Hume (1711-1776) (trang 20), và quan trọng nhất là nhà triết học người Đức Immanuel Kant (1724-1804).

Nhiều tác giả/ NXB Trẻ

Bình luận

SÁCH HAY