Là một nhà văn nổi tiếng, song Tô Hoài thường lại có sự cảm thông riêng với những khốn khó của nghề cầm bút: Không ít phen ông đã để công viết về những đồng nghiệp bất hạnh trong viết lách, tức những người ham muốn nhiều mà lực bất tòng tâm, sống lom đom nhợt nhạt, kéo lê cả cuộc đời giữa giới sáng tác. Có lẽ, là do được sự cổ vũ ngấm ngầm của Tô Hoài mà có lần nhân nói chuyện với ông, tôi đã buột miệng:
- Đúng là có thuộc loại như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, hay Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu thì hãy nên trở thành nhà văn! Chứ còn đa số chúng tôi, cơm vãi cơm rơi, giá có nói tên lên cũng chẳng ai người ta nhớ tới một tác phẩm nào của mình, cả một đời sống với văn chương vẫn hoá ra đứng ngoài, lắm lúc nghĩ lại chua xót lắm.
Quả thực sau mấy chục năm dang dở với nghề, cho đến những năm tuổi gần sáu chục này, tôi vẫn nghĩ thế!
Tuy nhiên, nhìn đi nhìn lại chung quanh, thấy những nhân vật gọi là hàng đầu của sinh hoạt văn học một thời, thật ra chỉ độ mươi người - còn ra loanh quanh cũng loại ẩm ương như mình. Chính số đông này làm nên vẻ tấp nập thông thường của đời sống văn chương.
Vả chăng sẽ là còn phiến diện, nếu đánh giá một con người, mà chỉ tính đến tài năng. Trong khi tài năng phụ thuộc không ít vào những năng khiếu thiên bẩm thì giá trị của con người còn phải được đo tính căn cứ vào cái nhận thức cơ bản của người đó về cuộc đời, và về chính mình, cái bản lĩnh của con người đó trong việc tìm ra và theo đuổi một cách sống thích hợp với bản thân, tiếp theo là cái nghị lực để đi đến cùng trên con đường đã chọn.
Còn nhớ Xuân Sách, cây bút tinh đời, đáo để, kẻ đã làm ồn một dạo bởi những bài thơ chân dung viết về các đồng nghiệp, Xuân Sách đó có lần nửa đùa nửa thật nói với Nguyễn Minh Châu (vốn là cùng xuất phát, nhưng sau đi được xa hơn nhiều, so với Xuân Sách):
- Anh đừng vênh mặt với chúng tôi! Tại trời cho anh nhiều hơn chúng tôi chứ đâu anh có cần cố gắng! Vậy thì với tư cách nhà văn, lẽ ra anh phải thông cảm với đám chúng sinh bất hạnh mới phải! Cũng nên sớm học tập cách kính trọng bọn không nổi tiếng đi thì vừa. Vì trong cái bọn không nổi tiếng ấy, khối tay, về mặt thông minh và bản lĩnh, nó còn bằng mấy anh đấy!
Dường như Xuân Sách không chỉ nói riêng với Nguyễn Minh Châu, mà còn nói chung với nhiều người khác.
Riêng với tôi, một người làm phê bình, lại thích viết về cuộc đời các nhà văn, thì mấy lời tâm huyết ấy của Xuân Sách là cả một gợi ý. Tôi cũng rất muốn vẽ cho ra khuôn mặt những con người không chói lọi trong nghề, những người thoạt nhìn mờ mờ nhân ảnh mà xét kỹ lại hoá ra rất bản lĩnh.
Nhận ra một sự thực - ở đây là nhận thức thấu đáo bản chất một tính cách - luôn luôn là thú vị. Nhưng nếu như trong quá trình nhận thức ấy, bản thân mình có sự tự vượt lên, tức ban đầu hiểu về người ta thế này, sau lại nghĩ được khác đi, nghĩ sâu hơn và tìm ở người mình quen những khía cạnh mới, thì sự thú vị lại càng tăng lên gấp bội.
Câu chuyện về Nhị Ca ở đây, là nằm trong cái mạch đó. Từ lúc nào không rõ, tôi cảm thấy trước mặt tôi không chỉ có một con người nặng chất công chức, làm đều đều việc hàng ngày, mà còn có một nghệ sĩ với niềm tin riêng và cách sống riêng.
Trong sự gắng gỏi để sống, bắt đầu từ bản năng thích ứng, con người đó dần dà hun đúc cho mình những lý lẽ để tin theo, và bởi lẽ sự gắng gỏi quá lớn, cuộc sống giành được phải qua quá nhiều dụng công, nên cái chất ngọc hun đúc được kia, cũng không phải bình thường, mà là một cái gì độc sáng, quái lạ.
Ý tôi muốn nói đến một chút hư vô ở Nhị Ca, hư vô với nghĩa chấp nhận đời sống, vượt qua mọi quy phạm cứng nhắc thông thường để quan niệm rằng, đời sống này chẳng bị ràng buộc bởi cái gì hết, chỉ riêng nó là có nghĩa, và làm sao tồn tại được, thế là anh thắng rồi, anh có thể yên tâm với cái anh có.
Với những ai kia, hư vô là chuyện đâu đâu, song với Nhị Ca, hư vô chỉ có nghĩa như vậy. Cái điều thoạt nhìn tưởng như xa xỉ, hoá ra lại đã nảy sinh một cách tự nhiên, nó là một thoáng sương khói mông lung mà mọi người bình thường đều cảm thấy, chẳng qua không gọi tên ra rành mạch đấy thôi.
Nói cách khác, nó là những thoáng triết lý mà phàm còn sống người ta còn cần tới sự trợ giúp của nó. Như ở Nhị Ca mà tôi đang kể, một thoáng hư vô là rất cần cho một người ốm và từng cảm thấy bất lực như ông, nên trong đời sống hàng ngày, hầu như không có việc gì ông không viện dẫn tới nó.
Trở lại câu chuyện hàng ngày Nhị Ca sinh hoạt và làm việc đều đều như một cái máy. Mới đầu, tôi tưởng không gì dễ hơn, chỉ mãi về sau mới hiểu được rằng không gì khó hơn chuyện đó. Dường như đã nhận ra sự tỉnh ngộ của tôi - nghĩa là biết tôi đã công nhận ý chí của mình, trong việc tạo nền nếp cho đời sống và một thoáng hư vô sau cái nhịp sống mực thước ấy - Nhị Ca tâm sự:
- Các ông nghệ sĩ cứ hay vớ vẩn nói chuyện hứng thú. Từ góc độ một thằng đau ốm như tôi mà nói, thì tất cả là lý trí. Cả đến ăn cũng phải có lý trí. Khốn nạn, đang ốm, nhiều khi có thấy ngon lành gì đâu, nhưng cần phải ăn là ăn, tự nhồi mình như nhồi vịt vậy. Rồi sẽ thấy thích và quan trọng hơn rồi sẽ thấy khoẻ.
Sau sự kiện Mậu Thân, từ đầu những năm 70 khi cuộc chiến có chiều kéo dài, và đời sống thời chiến bộc lộ nhiều điều không như ý muốn, anh em gặp nhau thường có ý kêu ca rằng sao dạo này con người như ác với nhau quá, tệ bạc với nhau quá, Nhị Ca bác đi một cách đơn giản:
- Chẳng có sự suy vi nào như các ông nói cả. Chẳng qua xếp hàng mua mì mua thịt khó một chút, điện nước thường xuyên chập chờn một chút, nên người ta dễ sinh ra cáu giận rồi độc ác vậy. Mai kia, mọi chuyện dễ dàng, người ta lại xởi lởi với nhau ngay đấy mà.
Luôn luôn, ông trở về với mình nhưng cũng luôn luôn, ông nâng mọi chuyện lên, thành những nguyên lý:
- Xưa nay, tôi vẫn thấy cần quan niệm như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử vẫn dạy, tức là hoàn cảnh tạo nên tính cách con người. Khi tôi còn khỏe, tôi làm đủ việc, tôi phụ trách đội cổ động tuyên truyền cho kháng chiến, tôi làm trợ lý, tôi đi họp về văn nghệ rồi tôi làm thơ, thơ in đá ấy mà, có ra gì đâu, nhưng mà đã in ra, tóm lại là tôi đủ việc như mọi người. Còn bây giờ, tôi ốm thì tôi làm việc theo kiểu bây giờ, không thể phung phí sức lực như những người đang khoẻ và chính mình lúc đang khoẻ.
Ông chưa thể hiểu hết tâm trạng của một người ốm nặng trở về, đơn giản là vì ông chưa ốm, thế thôi. Nhưng ông phải nhớ xưa kia, tôi cũng như ông và nếu rơi vào hoàn cảnh tôi, ông cũng sẽ như tôi. Chúng ta chẳng có gì là khác nhau cả.
Trước một con người có tính cách ổn định như Nhị Ca, ổn định trong cái thế nhiều tầng lớp đa dạng khuất khúc của nó, không phải chỉ riêng tôi, mà nhiều nhà văn khác ở Văn nghệ quân đội hồi ấy cũng có những điều phải suy nghĩ. Một trong số đó là Nguyễn Minh Châu.
Tác giả Cửa sông, Dấu chân người lính hồi ấy còn ở tập thể nên những lúc rỗi rãi cũng ngồi đấu hót đủ chuyện linh tinh với bọn tôi. Và Nguyễn Minh Châu đó từng đùa cợt mà dọa:
- Lúc bí, thể nào mình cũng lôi mấy thằng phê bình ra mà viết mới được. Thò tác phẩm nào của mình ra chúng nó cũng nhận xét với lại phê phán, rồi không chỉ viết về cuốn tiểu thuyết hay tập truyện ngắn, mà còn viết về cả con người mình ở đằng sau tác phẩm nữa. Thế thì tại sao, mình không viết một truyện, lấy nhân vật chính là Nhị Ca, một truyện khác lấy nhân vật chính là cái thằng Nhàn này này.
- Viết ra sao? - Tôi hỏi lại.
Dường như chưa quên những sốt sắng ngây ngô hồi nào của tôi, nó đối lập với bao nhiêu từng trải, bao nhiêu lõi đời của Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu nói một cách hình ảnh:
- Để viết riêng về Nhị Ca không thôi, tôi sẽ tả một nhân vật sống giữa căn phòng được kẻ ô cẩn thận và nhân vật đó sẽ luôn luôn vừa đi vừa xác định:
“A, mình đã đi đến mi-li-mét này rồi!”.
“A, còn đang thiếu mấy xăng-ti phải cố cho kịp!”.
Còn như để viết về sự oái oăm của cuộc đời, tôi sẽ tả một căn phòng có hai thằng một già một trẻ. Thằng trẻ đêm ngày thảng thốt đi lại, đấm cửa thình thình. Còn thằng già sẽ đắp chăn kín đầu, và chỉ thỉnh thoảng, bị quấy rầy quá mới thò cổ ra mà tuyên bố rằng: “Chỉ có điên mới lúc nào cũng húc đầu vào tường để tìm tự do rồi lại mình túm ngực mình băn khoăn, không hiểu rằng mình đang hạnh phúc hay bất hạnh”.
Giữa người với người, sự hiểu được nhau, không phải là lúc nào cũng dễ dàng, có điều suy cho cùng, ai thế nào đến vợ con mình cũng biết, nữa là các đồng nghiệp viết văn. Không phải là tôi quá đề cao nghề này, song những bài học cụ thể tôi học được ở Văn nghệ quân đội, dạy tôi như vậy.
Trong số những cây bút chủ lực của cơ quan tôi năm ấy, Nguyễn Minh Châu là một người rất có tài, và có năng khiếu. Cách sống của ông Khúng, dĩ nhiên, là có khác cách sống của Nhị Ca, bởi thế lúc hứng lên Nguyễn Minh Châu không khỏi có ý chế giễu cái tính quá công chức của ông bạn lớn tuổi. Nhưng có dịp cùng sống với cả Nhị Ca lẫn Nguyễn Minh Châu, tôi biết là từ chỗ xa lạ, dần dần Nguyễn Minh Châu cũng đã nhận ra cái bản lĩnh hơn người của Nhị Ca.
Sau lưng Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu thường không ngớt lời khen: “Ở cái nhà này, không thằng nào lọc lõi bằng Nhị Ca”.
“Cứ bảo ông Khải lạnh lùng với lại hoài nghi! So với Nhị Ca, Khải còn trong sáng chán, không biết chừng có lúc còn phải mang giấy bút đến mà nghe Nhị Ca giảng kia đấy”.
“Tìm tòi cái gì, cuối cùng chúng ta sẽ rơi vào sự biết điều mà cũng là cái trung dung của lão Nhị Ca hết!”.
Ấy, sở dĩ cái giọng của Nguyễn Minh Châu mỗi khi nói về Nhị Ca ngày càng có vẻ dịu dàng hơn ưu ái hơn, lý do là vì như thế.
*
* *
Lúc còn làm việc bình thường, Nhị Ca sẵn có thái độ trân trọng với lớp người đi sau. Ông tin khi mình không làm việc nữa, sẽ có những người khác làm, và nửa đùa nửa thật, ông bảo biết đâu, khi mình gặp chuyện khốn khó, những người đó chả giúp mình được ít nhiều!
Những tưởng đó chỉ là những điều Nhị Ca vui mồm nói chơi nào ngờ, trong đời ông, lại có lúc trở thành sự thật: Sau khi từ Tạp chí Văn nghệ quân đội chuyển qua Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ít lâu, Nhị Ca bị đứt một bên mạch máu não, phải nằm liệt một chỗ, trong khi bản thảo cuối cùng, cuốn Gương mặt còn lại - Nguyễn Thi còn dang dở.
Một đồng nghiệp trẻ của ông, anh Ngô Thảo, đã gánh vác việc hoàn chỉnh chuyên khảo này của Nhị Ca, nhờ đó, cuối năm 1983 cuốn sách được in ra, trong sự vui mừng, hơn nữa, sự thanh thản của Nhị Ca: Những gì làm được, ông đã làm, có thể yên tâm ra đi.
Suốt bốn năm nằm trên giường bệnh, Nhị Ca vẫn tỉnh táo nghỉ ngơi, ăn uống (ăn uống lúc này lại là một công việc), chịu đựng mọi đau đớn, sẵn sàng chấp nhận những tai hoạ sẽ tới. Và khi có điều kiện, ông đọc sách, suy nghĩ về đời sống, nhớ lại mọi vui buồn trong hơn năm chục năm làm người của mình.
Nhiều bạn bè đến thăm ông không khỏi ngạc nhiên, bởi thấy người bệnh còn quá tỉnh, thân thể thì héo tàn đi, nhưng đầu óc sáng suốt thêm, không oán, không giận, từ tốn hỏi chuyện anh em đang khoẻ đang làm việc.
Có hôm ông đùa bỡn bảo tôi: “Có phải đứa nào cũng hỏi thăm rằng Nhị Ca đã chết chưa phải không?”. Lần khác, nghe nói hai người bạn trẻ một nam, một nữ tính chuyện gắn bó với nhau, mà lại ngượng ngùng, giấu giếm, ông nhắn:
“Về bảo với chúng nó, đừng tranh cướp của người khác, đừng phạm pháp là được, còn bằng tài năng của mình, bằng lao động của mình, ai thêm được một bát cơm ngon cứ ăn, một chén rượu ngon cứ uống, một mối tình tốt đẹp cứ hưởng. Nhân danh một thằng sắp chết tôi muốn nói với mọi người như vậy”.
Trong giọng nói đã lạc đi của ông, trong nụ cười nhiều khi không thành của ông, trước mắt chúng tôi vẫn là một Nhị Ca tha thiết với đời sống này.
Lại nhớ những kỷ niệm về cuộc sống một thanh niên Hà Nội cũ, mà lúc vui chuyện, ông từng kể. Lại nhớ những lúc mắt ông sáng lên bên chén rượu. Lại nhớ những lúc ông sau giờ làm việc, ngất ngưởng cái mũ vải trắng trên đầu hoà nhập một cách tự nhiên vào đường phố Hà Nội, và sau 1975 là đường phố Sài Gòn, hòa nhập vào đó, để rồi mất hút đi, với cuộc đời riêng trong đó rất thoải mái.
Ông bảo tôi nếu còn khỏe, sau Nhà thờ Đức bà Paris, ông rất muốn dịch tập Décaméron (tức Mười ngày) của Bocaccio, một cuốn sách ca ngợi hạnh phúc trần tục ngay trong cuộc đời chúng ta đang sống.
Nhị Ca không làm hết mọi điều ông đã ước muốn, song tinh thần của cái cách sống mà ông tuân theo, chúng tôi thấy cần ghi nhận, bởi ngày càng thấy trong sự dễ dàng của nó, không chừng đó là cách sống phù hợp với đám đông chúng sinh mặt trắng là tôi, là anh, là rất nhiều kẻ tài năng làng nhàng chúng ta.
Có phải tự con người thích triết lý nọ kia đâu, chẳng qua đời sống thúc ép nên người ta phải cố nghĩ ra những lý lẽ để tự vệ; trong thuở sơ khai của nó, các triết lý đều hình thành như vậy, và bao giờ nó cũng được tiếp nhận, tùy theo hoàn cảnh.