17 năm đã trôi qua từ ngày 15/5/2002, thời điểm Zinedine Zidane tung cú volley lịch sử vào lưới Bayer Leverkusen trong trận chung kết Champions League 2002.
Giới mộ điệu trong nhiều năm qua có lẽ nằm lòng câu chuyện Zidane gia nhập Real Madrid theo lời mời ghi trên chiếc khăn tay của Chủ tịch Florentino Perez. 75 triệu euro đã được đổi lấy chữ ký của Zizou từ Juventus, kỷ lục chuyển nhượng của thế giới lúc đó.
Song, sự thật là sân Santiago Bernabeu không hề dễ dàng với Zidane. Anh gặp nhiều khó khăn trong việc tìm ra vị trí của mình. “Zidane thi đấu không thực sự tốt trong năm đầu tiên tại Real. Anh ấy đã chơi khoảng 5 vị trí, Real cũng cố gắng để thích nghi với anh ấy. Chúng tôi không thể giành La Liga. Đó thực sự là áp lực với tất cả”, Steve McManaman nhớ lại bối cảnh trước trận chung kết tại Glasgow với ESPN.
McManaman đã tiết chế đi chút ít. Real không chỉ thất bại trong cuộc đua vô địch La Liga năm đó (chỉ về thứ 3), mà còn bị Deportivo loại khỏi Cúp Nhà vua từ vòng bán kết. Trận chung kết Champions League với Bayer Leverkusen vì thế là cơ hội cuối cùng để Real Madrid giành được một danh hiệu trong mùa giải mà họ phá két để có cầu thủ đắt giá nhất thế giới.
Với Zidane, đó là ngày phán quyết. Danh xưng “Cầu thủ vĩ đại nhất thế giới”, “Chữ ký đắt giá nhất lịch sử” hoàn toàn có thể nhạt nhòa đi ít nhiều nếu anh tiếp tục không tạo ra một điều gì đó trong trận chung kết Champions League thứ 3 của sự nghiệp.
Zinedine Zidane đi vào lịch sử với cú volley nát lưới Bayer Leverkusen tại trận chung kết Champions League 2002. Ảnh: Getty. |
Khoảnh khắc của Zidane
Đối thủ của Real Madrid và Zidane khi ấy là Bayer Leverkusen, đội chưa từng lọt vào trận chung kết cúp châu Âu nào trong suốt lịch sử. Dẫu vậy, đội bóng của Klaus Toppmoller khi ấy cũng không thể bị coi thường khi khuất phục Manchester United của Sir Alex Ferguson tại bán kết.
Trận chung kết bắt đầu nhanh chóng khi chỉ sau 15 phút, lưới của cả 2 đội đều rung lên. Raul Gonzalez mở tỷ số sau khi láu cá thoát xuống từ cú ném biên của Roberto Carlos. Còn Lucio chỉ 5 phút sau gỡ hòa cho đại diện nước Đức bằng một cú đánh đầu không thể cản phá.
Zidane tới Real Madrid với giá 75 triệu euro từ Juventus trong mùa hè 2001. Ảnh: Getty. |
Phút cuối cùng của hiệp 1, thời khắc của Zidane đến. Santiago Solari và Roberto Carlos có pha phối hợp bên cánh trái. Bóng được Roberto Carlos đưa vào trong tư thế với, chính hậu vệ người Brazil sau này thừa nhận với ESPN là “một quả tạt tệ”.
Song khi điểm đến là Zinedine Zidane, tất cả thay đổi hoàn toàn. Tiền vệ người Pháp ngước nhìn trái bóng bay trên không trung trước khi vặn người tung cú volley bằng chân không thuận trước sự ngỡ ngàng của tất cả. Bóng từ chân Zidane, bay như một viên đạn, đi thẳng vào khung thành Leverkusen, và lưới rung. Tỷ số 2-1 cho Real Madrid. Hampden Park gần như "nổ tung".
“Khoảnh khắc ma thuật của thiên tài. Nếu không phải Zidane, sẽ không ai có thể làm được như vậy”, Santiago Solari, người khởi xướng pha bóng ấy sau này quả quyết.
“Hoàn hảo. Không một ai có thể nghĩ tới việc volley trong tình huống đấy cả”, Jens Nowotny, đội trưởng của Leverkusen khi ấy không thể tham dự trận đấu vì chấn thương thừa nhận.
“Bất kỳ CĐV bóng đá nào cũng sẽ đắm chìm trong khoảnh khắc đó, chứ không riêng gì CĐV Real Madrid”, Raul Gonzalez nhấn mạnh.
Zidane sau này nói anh không tài nào thực hiện lại được pha bóng ấy: “Tôi đã thử làm lại nhiều lần, khi tập luyện, thi đấu, thậm chí ngay cả khi quay quảng cáo. Tuy nhiên, tất cả đều thất bại. Nó thực sự chỉ hoàn hảo vào đúng ngày hôm đó mà thôi”.
Zidane vô địch Champions League lần đầu tiên trong sự nghiệp với bàn thắng quyết định vào lưới Leverkusen. Ảnh: Getty. |
Sau khi ghi tuyệt phẩm ấy vào lưới Bayer Leverkusen, Zidane đã chạy tới 60 m để ăn mừng. Solari nói “chưa từng thấy” Zidane phấn khích như vậy. Zidane đã giành gần như mọi danh hiệu lớn trong sự nghiệp tính đến lúc đó, song siêu phẩm ấy, trong một trận chung kết Champions League, là quá đủ để thiên tài người Pháp phá vỡ bộ nhận diện trầm lặng của mình.
“Tôi không lên kế hoạch cho những bàn thắng như thế. Chỉ đơn giản là cơ hội đến, và bạn phải sẵn sàng. Đó chắc chắn là một trong những khoảnh khắc quan trọng nhất trong sự nghiệp của tôi”, Zidane thừa nhận.
May hay không may?
Huấn luyện viên của Bayer Leverkusen khi ấy là Klaus Toppmoller chưa từng hạ thấp giá trị thẩm mỹ của cú sút từ chân Zidane, song ông tin thủ thành Hans Jorg-Butt khi ấy hoàn toàn có thể làm tốt hơn.
“Zidane là thiên tài, nhưng cú sút ấy không đưa bóng đi vào góc chết. Và Hans-Jorg Butt hoàn toàn có thể cản phá được nó. CĐV bóng đá Đức đều tin nếu đó là Oliver Kahn, sẽ chẳng có bàn thắng nào cả. Chúng tôi đã có thể giành cú ăn ba nếu có Kahn. Không chỉ một mình tôi, mà tất cả đều thất vọng với Butt”, ông Toppmoller không giấu được sự cay đắng.
Thủ thành Hans-Jorg Butt là nạn nhân của siêu phẩm từ Zinedine Zidane. Ảnh: Getty. |
Khi ESPN cố gắng liên lạc với thủ thành người Đức vào năm 2017 để hỏi về trận chung kết Champions League năm 2002 đó. Những gì họ nhận được là câu trả lời “Không, và đừng bao giờ gọi lại cho tôi nữa” của Butt. Kỳ ức đau buồn vì siêu phẩm đó của Zidane vẫn ám ảnh cựu thủ thành Lervekusen sau 15 năm.
Vì sao Butt lại không thể cản phá được cú dứt điểm đó của Zidane như kỳ vọng của HLV Toppmoller hay những CĐV bóng đá Đức? Không ai rõ. Nếu nhìn lại một cách thật công bằng pha bóng ấy, rõ ràng là Zidane đã biến một điều không tưởng (đường chuyền hỏng của Roberto Carlos) trở thành sự thật.
Và rất có thể Hans-Jorg Butt cũng giống như những người có mặt tại Hampden Park lẫn những khán giả truyền hình vào hôm đó, đều không tin Zidane có thể vẽ ra quỹ đạo hoàn hảo như thế, để rồi mất đi lợi thế của người gác đền là khả năng phán đoán và trở thành kẻ thất bại.
Khép lại một chu kỳ
4 năm trước ngày Zidane tung ra cú volley diệu kỳ rung chuyển cả thế giới đó, Predrag Mijatovic đã ghi 1 bàn thắng vô cùng đơn giản vào lưới Juventus trong trận chung kết Champions League 1998, mở ra thời kỳ hùng bá châu Âu của Real Madrid sau 32 năm liền không giành được chức vô địch.
Sau chức vô địch vào năm 1998 ấy, Real lọt vào trận chung kết mùa 1999/00, 2001/02 và đều giành chức vô địch. Cú volley của Zidane khi ấy, đã vẽ ra nhiều viễn cảnh về một thời kỳ mà Real Madrid sẽ thống trị châu Âu như ở thập niên 50 với 5 chức vô địch cúp C1 liên tiếp.
Đây là đội hình Real Madrid giành chức vô địch UEFA Champions League lần cuối cùng trước kỷ nguyên của Cristiano Ronaldo. Ảnh: Getty. |
Song siêu phẩm của Zidane, hóa ra lại là dấu son cuối cùng của Real Madrid ở đấu trường UEFA Champions League trong suốt hơn 10 năm sau đó. Mùa 2002/03, Real giữ nguyên bộ khung đã lên ngôi vô địch và bổ sung thêm “Người ngoài hành tinh” Ronaldo từ Inter Milan.
Tuy nhiên, dàn siêu sao ấy chỉ lọt vào bán kết Champions League mùa sau trước khi chịu thua Juventus cửa Pavel Nedved. Quãng thời gian sau đó là một thảm họa thực sự. Năm 2003, Real Madrid bán đi Claude Makelele để lấy về David Beckham từ MU.
Dàn Galacticos 1.0 của Real chỉ giành nổi một chức vô địch bé nhỏ là Siêu cúp Tây Ban Nha vào năm 2003, và gần như đại bại trên mọi đấu trường. Năm 2005, Luis Figo ra đi, khơi mào cho sự thoái trào của triều đại Galacticos.
Tháng 1/2006, Chủ tịch Florentino Perez từ chức. Tháng 5/2006, Zidane giải nghệ. Tháng 1/2007, Ronaldo rời Real tới AC Milan. Tháng 6/2007, Becks rời Real tới LA Galaxy. Galacticos 1.0 chính thức tan rã.
Sau này khi nhìn lại, sự xuất hiện của Zidane tại Santiago Bernabeu là cú nổ lớn nhất cho tham vọng tạo ra một dải thiên hà của Chủ tịch Florentino Perez. Ông đúng là có được nó với cúp bạc Champions League 2002 ấy. Song vinh quang ngắn ngủi, mà thất bại thì lại kéo dài quá lâu.
Dàn siêu sao này chỉ giúp Real Madrid giành đúng 1 danh hiệu. Ảnh: Getty. |
Những sai lầm liên tục trong công tác quản lý (sa thải Del Bosque, bán Makelele) đã khiến Real Madrid tự suy yếu đi so với những đối thủ. Zidane và dàn Galacticos khi ấy lại trở thành tử huyệt của Real. Họ quá no nê danh hiệu để tìm ra động lực, nhưng có thừa danh tiếng để bắt cả thế giới phải xoay quanh mình.
Cú volley cực phẩm của Zidane tại Hampden Park sau cùng lại là tiếng chuông báo hiệu sớm ngày tàn của đế chế Galacticos, khi nó đang ở ngay trên đỉnh cao.