Về nơi ăn cơm trộn... tro ở miền Tây
Hiếm có nơi nào người và tro gắn bó với nhau quanh năm suốt tháng như ở Trà Thôn. Tro hiện diện mọi nơi, trong chén cơm có bụi tro, trong ly nước có tàn tro và ngay cả trong giấc ngủ cũng mang vị mặn của tro.
"Thương cảng" tro độc nhất vô nhị
Lọt vào kênh Trà Thôn, tới ấp Long Quới 1 (xã Long Điền B, H.Chợ Mới, tỉnh An Giang) là coi như tới chợ tro “độc nhất vô nhị” ở miền Tây. Dưới kênh ghe nhỏ, tàu lớn buôn bán tấp nập. Ghe, tàu nào cũng lố nhố bóng người giậm, cào, đội tro,... Còn 2 bên đường, đi tới đâu cũng thấy những đụn tro chất đống, cao ngồng đã được quây bạt che mưa. Đó là những đống tro được chủ vựa mua lại để chuẩn bị chuyển đi bán cho các chủ vườn, nhà ruộng ở các tỉnh Đồng Tháp, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai...
“Thương cảng tro” tấp nập ở kênh Trà Thôn. |
Vừa bước xuống ghe tro của chị Võ Thị Bé Năm (42 tuổi), một làn gió nhẹ thổi qua làm bụi tro bám đầy trên mặt, tóc chị cùng những nhân công đang hì hụi cào tro đổ vào bao. Quẹt vội vệt bụi đang bám trên mặt, chị Bé Năm cho biết gia đình gắn bó với nghề này hơn 20 năm. Hầu như ngày nào cũng “ăn ngủ” với tro. Mặt mũi không đen nhẻm là “ăn cơm không ngon”.
Nhà chị Bé Năm có 3 người thì cả 3 đều sống bằng nghề tro. Chồng chị, anh Trần Văn Chung (người dân quen gọi là Bảy Chuối) hằng ngày phải rong ruổi tứ xứ để thu gom tro rơm. Chị cho hay, con trai duy nhất của chị năm nay 17 tuổi học đến lớp 7 phải nghỉ để theo cha đi mua tro.
Để có đủ nguồn tro cho chủ vựa, các chủ nghe như chị Bé Năm phải lặn lội đi mua ở các cánh đồng lúa sau mùa thu hoạch của vùng Đồng Tháp Mười, khu Tứ giác Long Xuyên, Nông trường Sông Hậu, Nông trường Cờ Đỏ (Cần Thơ) hoặc phải qua tận các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang.
Sống được với nghề, người dân nơi đây phải đổ những giọt mồ hôi nhuộm màu tro đen. |
Chị Bé Năm nói: “Có khi phải đi cả tuần mới về đến nhà. Cuộc sống chủ yếu là ở trên ghe”. Phụ nữ xứ này không ai là không đen... như tro, nhưng vì không có ruộng vườn nên buộc phải mưu sinh bằng nghề này. “Tụi tui hít, ăn bụi tro từ nhỏ nên riết rồi miễn dịch với nó. Mà cũng lạ lắm nghen, tụi tui chả khi nào bị ho hen, sổ mũi. Mà tui cũng chưa thấy ai chết vì cái nghề làm tro này. Trước đó, ông bà, cha mẹ tụi tui cũng làm, nhưng họ vẫn sống mạnh tới già”, chị Bé Năm vừa cười vừa nói.
Chị Nguyễn Thị Thanh Thúy (45 tuổi), đang hì hụi cào tro vào bao, nói: “Tui cũng làm nghề này lâu lắm rồi, từ lúc nhỏ tới giờ. Dân xứ tro mà không ngửi, hít, đen như tro thì không phải dân... xứ tro”.
Theo chị Thúy, nghe ông bà kể lại thì chợ tro ra đời từ trước năm 1975. Lúc đầu chỉ có vài ba hộ bán tro cho các điểm trồng hoa kiểng. Theo thời gian, nghề tro phát triển dần. Nhiều người trong xóm sống được với nghề này nên lôi kéo các hộ khác tham gia. Ấp hiện có khoảng 100 hộ mua bán tro, còn số lao động gắn với nghề lên đến 200 người.
Chị Nguyễn Thị Thanh Thúy (45 tuổi), người có thâm niên cào tro hàng chục năm. |
Em Lê Thị Cẩm Tú (15 tuổi) đang cào tro thuê cho ghe nhà chị Bé Năm và anh Chung. |
Em Lê Thị Cẩm Tú (15 tuổi), đang cào tro thuê cho ghe của chị Bé Năm, quẹt những giọt mồ hôi nhuộm màu tro, chia sẻ: “Em đi cào tro thuê được hơn 2 năm rồi. Mỗi ngày kiếm được khoảng 100.000 đồng để phụ gia đình”. Nhà em Tú có 5 người, ba mẹ vì không có mảnh đất cấm dùi, cũng không có tiền mua ghe nên sống bằng nghề cào tro thuê cho các chủ ghe, đội thuê cho các chủ vựa.
Em là con lớn trong gia đình, mới học hết lớp 2 đã nghỉ, rồi dần dà theo ba mẹ cào tro thuê để kiếm tiền phụ gia đình nuôi 2 đứa em đi học. Đen nhẻm vì tro Tú không ngại mà còn cảm thấy vui vì “còn hít được bụi tro là còn mừng, vì như vậy mới có tiền. Làm nghề này mà nhảy mũi, chảy nước mắt hay bị ngứa vì tro mà lấy tay gãi là không phải dân tro chuyên nghiệp”, em Tú hồn nhiên nói.
Phụ nữ Trà Thôn không ai là không “đen như tro”. |
Bấp bênh với nghề
Từ sáng sớm đến tận chiều, thương cảng tro Trà Thôn lúc nào cũng tấp nập. Dọc theo kênh Trà Thôn, hàng trăm ghe chở tro nối đuôi đậu 2 bên bờ, ra tới dòng sông ông Chưởng, kẻ mua, người bán nhộn nhịp. Hễ có tro, sau khi thỏa thuận xong giá cả giữa chủ ghe và chủ vựa thì người làm thuê sẽ cào tro cho vào bao và vác lên bờ. Người bán (chủ ghe) thường là hộ gia đình có ghe khoảng 10 tấn trở xuống. Họ bỏ công đi thu gom tro ở các tỉnh. Mỗi đợt thu gom khoảng 10 ngày, rồi về Trà Thôn bán lại cho các ghe lớn (chủ vựa). Nghỉ ngơi một vài ngày họ lại tiếp tục chuyến khác.
Những phụ nữ kiếm thêm thu nhập bằng nghề “giậm tro” thuê cho các chủ vựa. |
Anh Trần Văn Chung cho biết một ghe anh thu gom từ 1.200 - 2.000 giạ tro rơm (1 giạ bằng 20kg), mất hơn chục ngày, kiếm lời được vài triệu đồng. Nếu xoay vòng được nhiều chuyến thì nguồn thu nhập nâng lên, lợi nhuận khoảng 3 - 5 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, vào mùa mưa bão, tro rơm thường rớt giá nên có khi chỉ huề vốn.
Những năm gần đây, do bà con sử dụng máy cắt lúa nên lượng rơm không nhiều, có khi cả nửa tháng mới thu gom được một chuyến, chủ yếu lấy công làm lời. Chị Võ Thị Bé Năm cho biết thêm: "Nghề này vừa đen nhẻm, vừa vất vả nhưng không biết làm nghề nào khác, vì nhà không có đất đai".
Để gom được một ghe đầy tro như thế này, vợ chồng anh Chung phải mất cả chục ngày rong ruổi ở các tỉnh miền Tây. |
Thời điểm này, giá tro dao động từ 3.800 - 4.000 đồng/giạ. Các chủ vựa ở Trà Thôn sau khi mua sẽ đưa vào kho dự trữ đến tháng 8, tháng 9 sẽ chở đi (khoảng 10.000 - 20.000 giạ/ghe) bán lại cho những nơi có nhu cầu trồng hoa kiểng, hoa màu với giá từ 6.000 - 10.000 đồng/giạ. Ông Lê Văn Than (57 tuổi, một chủ vựa ở Trà Thôn), cho biết: “Tro rơm là phân bón rất thích hợp với các loại hoa màu, cây kiểng nên được nhiều nhà vườn sử dụng”.
Tro rơm đã cho cả vùng quê nghèo khó này công ăn, việc làm. Trung bình một người làm thuê cho các chủ ghe, chủ vựa mỗi ngày kiếm được 100.000 - 150.000 đồng. |
Chị Lê Thị Bé Sáu (31 tuổi, chủ vựa), cho biết nhà chị có 4 anh chị em đều theo nghề tro của ba mẹ. Riêng chị đã theo nghề hơn 10 năm nay. “Một chuyến đi mất khoảng 10 ngày, có khi cả nửa tháng mới về đến nhà. Con cái còn nhỏ, bỏ ở nhà thì không ai trông nên phải cho chúng theo. Thấy thương nhưng đành chịu thôi”, chị Bé Sáu cười buồn chia sẻ. Chị có 3 con nhỏ, con gái lớn mới học lớp 3. Mùa học, chị gửi con ở nhà cho cô chăm sóc, mùa hè thì chở con theo ghe; còn 2 đứa nhỏ chưa đi học thì hầu như chuyến ghe nào cũng có mặt.
Nhiều gia đình đã 2 - 3 thế hệ gắn bó với nghề tro rơm. |
Theo chị Bé Sáu, tro là thứ bỏ đi với nhiều người nhưng với xóm này nó là chén cơm, manh áo. Chợ tro chỉ vắng khi gặp lúc trời mưa bão. Tuy vất vả, đen đúa nhưng đã mấy đời gia đình chị gắn bó với ghe tro. “Tro cho chúng tôi nhà ở, cho các con tôi đến trường và cho cả vùng quê nghèo khó này công ăn, việc làm”, chị Bé Sáu nói.
Có một điều khiến người dân xứ tro không giấu được niềm tự hào là vào tháng 9/2011, chợ tro Trà Thôn được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam (Vietkings) tặng danh hiệu 1 trong 100 phiên chợ độc đáo của Việt Nam. Tranh thủ lúc nghỉ trưa, những anh chị em xứ tro lại vang lên cầu vọng cổ cải biên bản vọng cổ Tình anh bán chiếu. Rằng “tro Trà Thôn cắm sào khắp ngã/thấy tôi đen đúa anh chớ vội cười/tro này bán hổng mắc đâu/ruộng vườn anh trúng, chúng mình nên duyên...”.
2 đứa con của chị Bé Sáu phải thường xuyên theo ba mẹ lênh đênh trên ghe. |
Ngô Đồng
Theo Infonet