Đến Bowlby, ông tin chắc rằng những mối quan hệ đầu đời có tầm quan trọng nền tảng, nhưng khi xem xét lại những nghiên cứu sẵn có, ông hầu như không tìm thấy tài liệu nào đặt vấn đề theo cách nhìn nhận của mình.
Tư tưởng chủ đạo trong ngành tâm lý học đầu thế kỷ XX có thể được tóm gọn qua tác phẩm Chăm sóc tâm lý cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ1 của John B. Watson, chủ tịch Hiệp hội Tâm lý Mỹ, tác giả cuốn sách bán chạy nhất năm 1928. Watson đã viết cả một chương về “Mối nguy hiểm của việc người mẹ yêu con quá nhiều”.
Nhà văn khoa học Deborah Blum viết tóm lược về lý thuyết của ông như sau: “Ôm ấp và chiều chuộng quá nhiều có thể khiến cho tuổi thơ không hạnh phúc, giai đoạn tuổi thanh thiếu niên trở thành cơn ác mộng - thậm chí làm lệch lạc đứa trẻ đến mức sau này không còn khả năng kết hôn”. Và hơn nữa, Watson còn cho rằng chỉ mất vài ngày ngắn ngủi, người ta đã có thể gây ra những thiệt hại không thể khắc phục cho đứa trẻ.
|
| Yêu thương trẻ đúng cách không đơn giản. Ảnh: King's Blog. |
Những nghiên cứu hiếm hoi về giai đoạn đầu đời thường tập trung vào sự thiếu thốn việc được chăm sóc. Tuy số lượng nghiên cứu đó còn hạn chế, nhưng chúng lại có tác dụng vô cùng mạnh mẽ. Một trong những nghiên cứu đầu tiên xuất hiện vào đầu những năm 1940. Một nhà phân tích tâm lý tên là René Spitz, làm việc với nhà tâm lý học Katherine M. Wolf, đã quyết định rằng cách tốt nhất để đo lường tầm quan trọng cốt yếu của một người mẹ là quan sát điều gì xảy ra với một đứa trẻ không có mẹ bên cạnh. Ông cũng biết số phận của những đứa trẻ sống trong trại trẻ mồ côi thật kinh khủng.
Ở một số cơ sở, tỷ lệ tử vong lên tới hơn 70%. Spitz viết: “Gần như không có ngoại lệ nào, [những đứa trẻ được đưa vào trại giáo dưỡng] về sau đều phát triển các chứng rối loạn tâm thần sau đó và trở thành những đứa trẻ khó hòa nhập xã hội, phạm pháp, thiểu năng trí tuệ, tâm thần hoặc có vấn đề nghiêm trọng trong hành vi”.
Nguyên nhân dường như là do thiếu sự kích thích và thiếu vắng hình bóng người mẹ. Theo ông, nhân danh vệ sinh, cơ sở này đã triệt để tiệt trùng môi trường sống của trẻ nhỏ đến mức họ “tiệt trùng luôn của tâm hồn của đứa trẻ”.
Để nghiên cứu vấn đề này, Spitz đã theo dõi 164 đứa trẻ sơ sinh trong năm đầu đời. Có 61 em được các y tá chăm sóc tại trại trẻ mồ côi truyền thống. Các em còn lại sống với cha mẹ ở nhiều môi trường khác nhau, bao gồm cả nhà tù dành cho những bà mẹ bị giam giữ.
Dù là ở nhà hay ở trong khu nuôi trẻ tại trại giam, những đứa trẻ sống với cha mẹ đều bắt đầu và kết thúc nghiên cứu ở mức phát triển gần như tương đương nhau, theo các bài kiểm tra có sẵn vào thời điểm đó. Thậm chí, các em bé sống trong trại giam còn phát triển tốt hơn, điều mà Spitz cho là nhờ tình yêu thương tận tụy của những bà mẹ trẻ, những người không có việc gì khác ngoài việc chăm chút cho con cái của mình.
Tuy nhiên, các em bé ở trại trẻ mồ côi lại sa sút nghiêm trọng. Các em rất dễ bị nhiễm trùng và bệnh tật, thậm chí các em đang “chết vì buồn bã”, theo lời miêu tả của Spitz. Ông chẩn đoán các em bé này mắc phải chứng “sinh bệnh do nằm ở bệnh viện quá lâu”, mà ông định nghĩa là “tình trạng suy nhược của cơ thể”.
Bị cách ly khỏi các kích thích thị giác bởi những tấm trải giường treo trên lan can cũi, chúng không có đồ chơi và thiếu hoàn toàn sự tiếp xúc với con người trong hầu hết thời gian trong ngày. “Mỗi em bé nằm trong tình trạng biệt lập cho đến khi có thể tự đứng dậy trong cũi”. Một số không bao giờ đạt được cột mốc đó.
Spitz kết luận rằng không phải việc thiếu hụt sự kích thích cảm quan là nguyên nhân chính gây ra tình trạng thiếu thốn ở trẻ em. “Chúng tôi tin rằng các em chịu khổ về thế giới cảm quan của mình không còn bóng dáng của những người bạn đồng hành là con người.” Spitz tiếp tục theo dõi nhóm trẻ sống trong trại thêm hai năm nữa. Kết quả cho thấy sự phát triển trí tuệ của các em bị trì trệ một cách nghiêm trọng và 37% nhóm ban đầu đã chết.