Thống kê từ số liệu của Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), Công ty Chứng khoán SSI cho biết hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp ghi nhận xu hướng giảm trong quý III vừa qua khi cơ quan quản lý siết chặt hoạt động này.
Tuy nhiên, so với trung bình các năm trước, số lượng phát hành quý III và 9 tháng năm nay vẫn ở mức cao.
Cụ thể, tính riêng quý III, các doanh nghiệp đã phát hành 188.000 tỷ đồng trái phiếu, giảm 4% so với quý trước và thấp hơn 17% so với cùng kỳ. Xu hướng này diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát mạnh và giãn cách xã hội tác động đến kế hoạch phát hành của nhiều doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, mức nền của quý III/2020 tương đối lớn khi đây là quý các doanh nghiệp tăng tốc phát hành trái phiếu riêng lẻ trước khi Nghị định 81 có hiệu lực.
KHỐI LƯỢNG TPDN PHÁT HÀNH 9T2021 | |||||||
Nguồn: HNX; SSI; Tổng hợp | |||||||
Nhãn | Bất động sản | Ngân hàng | Năng lượng & khoáng sản | Định chế tài chính khác | Phát triển hạ tầng | Khác | |
Khối lượng phát hành | tỷ đồng | 201900 | 136400 | 21900 | 20900 | 17500 | 44400 |
Lãi trái phiếu vượt trội gửi ngân hàng
Tính chung 9 tháng, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành là 443.100 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ.
Trong đó, các doanh nghiệp bất động sản vẫn là nhóm phát hành nhiều nhất với 201.900 tỷ (chiếm 45,5%). Theo sau là các ngân hàng với 136.400 tỷ (30,8%); nhóm năng lượng và khoáng sản phát hành 21.900 tỷ (5%); nhóm định chế tài chính phi ngân hàng là 20.900 tỷ (4,7%) và phát triển hạ tầng là 17.500 tỷ (3,9%)…
Đáng chú ý, dù đã giảm so với năm 2020, mặt bằng lãi suất trái phiếu doanh nghiệp (trừ nhóm ngân hàng) vẫn cao hơn nhiều so với lãi tiền gửi tiết kiệm. Điều này dẫn tới nhu cầu đầu tư trái phiếu từ các nhà đầu tư cá nhân vẫn tích cực.
Cụ thể, lãi suất phát hành bình quân của trái phiếu doanh nghiệp (trừ ngân hàng) trong quý gần nhất là 9,3%/năm, giảm 1,1 điểm % so với cuối năm 2020. Tuy nhiên, mức này vẫn cao hơn 4 điểm % so với tiền gửi ngân hàng.
Theo SSI, điều này cho thấy dư địa dòng tiền cá nhân tìm đến những tài sản đầu tư tài chính như trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn rất lớn.
Mặt bằng lãi suất trái phiếu doanh nghiệp cao vượt trội so với tiền gửi ngân hàng. Nguồn: SSI. |
Tuy nhiên, Bộ Tài chính trong 2 năm gần đây cũng đã ban hành nhiều quy định nhằm kiểm soát hoạt động phân phối trái phiểu và hạn chế sự tham gia trực tiếp của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường sơ cấp.
Cũng theo SSI, mặt bằng lãi suất thấp là động lực chính khiến các doanh nghiệp đẩy mạnh phát hành trái phiếu để huy động vốn nhanh và giảm áp lực lên chi phí tài chính, khi mặt bằng lãi suất cho vay từ ngân hàng không giảm tương ứng.
Theo đó, mặt bằng lãi suất cho vay của các ngân hàng chỉ giảm khoảng 0,6-0,7 điểm %/năm từ đầu năm đến nay.
Ngoài ra, việc huy động vốn thông qua kênh trái phiếu cũng giúp các doanh nghiệp chủ động hơn cho nguồn vốn vay trung và dài hạn với khối lượng lớn.
Nhiều trái phiếu bất động sản không có tài sản đảm bảo
Cũng theo số liệu từ HNX, sau câu chuyện về “bom nợ China Evergrande” ở Trung Quốc, nhiều nhà đầu tư đã bắt đầu để ý hơn tới tài sản đảm bảo cho trái phiếu doanh nghiệp. Tuy nhiên, chất lượng tài sản đảm bảo cho các đợt phát hành vẫn ở mức khiêm tốn.
Cụ thể, nếu loại trừ trái phiếu ngân hàng và định chế tài chính khác (hầu hết không có tài sản đảm bảo), có tới 17% trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong 9 tháng đầu năm nay không có tài sản đảm bảo.
Ngược lại, khoảng 36% lượng trái phiếu phát hành được đảm bảo một phần bằng tài sản, bất động sản và cổ phiếu; 20% được bảo đảm bằng bất động sản; 10% đảm bảo bằng tài sản; 7% đảm bảo hoàn toàn bằng cổ phiếu.
Riêng nhóm bất động sản, tài sản đảm bảo chủ yếu là các dự án, tài sản hình thành trong tương lai hoặc cổ phiếu/cổ phần của chính doanh nghiệp phát hành. Theo đó, có hơn 140.000 tỷ đồng trái phiếu bất động sản được đảm bảo một phần bằng cổ phiếu, chiếm 67% lượng phát hành trong 9 tháng qua.
Có khoảng 32.300 tỷ đồng trái phiếu bất động sản được phát hành nhưng không có tài sản đảm bảo. Ảnh: T.L. |
Tuy nhiên, tỷ trọng doanh nghiệp phát hành không có tài sản đảm bảo cũng tương đối cao, chiếm gần 16% lượng phát hành, tương đương hơn 32.300 tỷ đồng. Trong đó, lượng lớn doanh nghiệp không niêm yết nên khả năng tiếp cận các thông tin tài chính của nhà đầu tư bị hạn chế.
Đây là rủi ro lớn cho các nhà đầu tư trong trường hợp dòng tiền của nhóm doanh nghiệp này không được đảm bảo nếu hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn và sẽ không trả được nợ gốc, lãi trái phiếu.
Bên cạnh đó, việc đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ gốc lãi trái phiếu bằng cổ phiếu không có nhiều ý nghĩa vì khi sự kiện vi phạm xảy ra, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì giá trị cổ phiếu dùng làm tài sản đảm bảo cũng sẽ sụt giảm nghiêm trọng.