Là người cầm bút, tôi đã viết bằng cả trái tim mình vì quê hương. Ðó là câu trong suốt ba chục năm qua, tôi đã luôn tâm nguyện. Tôi viết bằng cả tấm lòng yêu thương của một người lính từ chiến trường về nhìn thấy quê hương, thấy những người thân yêu của mình chịu bao mất mát thương đau vì chiến tranh.
Sau mười lăm năm Thống nhất, do cơ chế bao cấp, đất nước vẫn còn quẩn quanh trong khó khăn đói kém. Đến những năm 1989- 1990, công cuộc đổi mới đất nước mới bắt đầu: Mở cửa biên giới thông thương làm ăn với nước ngoài, kinh tế dần hồi phục, văn học ngày ấy mới được gọi là“ cởi trói”. Chả biết ai trói ai hay mình tự trói mình. Tôi cũng theo trào lưu ấy, lao vào thử sức viết một cuốn tiểu thuyết xem sao.
Trong tâm thế lúc ấy cũng lơ mơ nhận ra “Tiểu thuyết là cỗ máy cái của văn học”. Bến không chồng chính là tiểu thuyết đầu tay của tôi nên khi viết cứ vô tư thấy gì viết nấy. Các nhân vật có sẵn trong làng trong xóm cứ thế mà phanh phui mổ xẻ chẳng ngại ngần gì. Các nhân vật chính như chú Vạn, bà Nhân, bà Hơn, đều là bà con họ tộc trong làng. Còn Hạnh, Dâu, Thắm đều là bạn bè trang lứa.
Khi viết tôi hình dung ra rõ tính cách từng người. Mỗi người một thân phận khác nhau. Câu chuyện tôi muốn gửi gắm tới bạn đọc với chủ đề chính là sự hi sinh mất mát vô cùng lớn lao của người dân quê tôi và những cô gái trong làng, họ đã trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt. Các trai làng ra trận để lại những cô gái không chồng hoặc có chồng cũng như không. Điều quan trọng hơn cả là sắp xếp các mối quan hệ cho hợp lí để bố cục tác phẩm cho chặt chẽ.
Sách Bến không chồng. Ảnh: NXB Trẻ. |
Khi viết Bến không chồng tôi mới chỉ là anh chàng thợ máy tàu thủy, làm máy trưởng của con tàu HQ06 của Cục Hải quan Quảng Ninh. Ngoài công tác kiểm soát chống buôn lậu, còn phải tham gia sản xuất trồng lúa, trồng khoai sắn, và còn cả đánh cá cải thiện đời sống, tham dự vào công cuộc chống đói như trên tôi đã đề cập. Đói thì đói, nhưng trong tư tưởng vẫn luôn hồn nhiên tràn đầy khí thế quyết chí tới mức ngu ngơ, hứng lên làm đơn xin lãnh đạo Cục cho nghỉ không hưởng lương sáu tháng liền ngồi nhà viết văn, mặc cho nhiều người bảo mình gàn dở. (Cái sự gàn dở này, mãi sau này tôi mới nhận ra, đây chính là tố chất ưu việt, rất nghệ sĩ của mình).
Khi tác phẩm Bến không chồng được gửi lên nhà xuất bản Tác Phẩm Mới (nay là nhà xuất bản Hội Nhà Văn), tôi thực sự cảm động trước nhận xét của nhà thơ Nguyễn Phan Hách: “Tiểu thuyết Bến không chồng như một biên niên sử của làng Đông nói riêng và của miền quê đồng bằng Bắc bộ nói chung”.
Vào một buổi tối, tôi nhận được điện thoại của nhà văn Lý Biên Cương thông báo “Bến không chồng được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam”. Tôi dửng dưng thoáng chút nghi ngờ tưởng nhà văn nói đùa. Nhưng giọng nói đầy hào hứng của nhà văn Lý Biên Cương bảo mai lên Hà Nội, sáng kia Hội Nhà văn tổ chức trao giải. Khi lên tới Hà Nội, tôi nhận được điện của nhà báo Dương Phương Vinh, phóng viên báo Tiền Phong xin gặp phỏng vấn. Oách nhỉ, tôi thầm nghĩ. Và vài ngày sau đã thấy báo Tiền Phong xuất hiện bài viết với cái tít ngồ ngộ “Chàng trai thợ máy tàu thủy lĩnh giải văn chương”.
Khi nhận giải thưởng xong, tôi có ghé thăm Tổng cục trưởng Tổng Cục Hải quan. Mục đích cũng chỉ để khoe chút thành công sau này ngành tạo điều kiện cho mình. Thật may, Tổng cục trưởng là người cũng đam mê văn chương nên ông rất phấn khởi bảo tôi: Dương Hướng cứ về, hải quan Quảng Ninh sẽ tổ chức mừng giải thưởng. Đây là niềm tự hào cho ngành.
Tiểu thuyết Bến không chồng bắt đầu từ ngày ấy cứ liên tiếp được tái bản hàng năm, phóng viên báo chí viết bài, phỏng vấn đủ chuyện xung quanh tác phẩm. Rồi sinh viên, học viên các trường đại học điện thoại xin gặp làm luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Rồi nước Pháp, nước Ý, nước Đức dịch. Đặc biệt ở trong nước, Đạo diễn Lưu Trọng Ninh hai lần làm phim: “Bến không chồng” phim nhựa, “Thương nhớ ở ai”, phim truyền hình.
[...]