Sau khi người Pháp đặt quyền cai trị ở Hà Nội thì nhiếp ảnh phát triển nhanh chóng. Các hiệu ảnh và người chụp ảnh ở Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX ấy phần lớn là người làng Lai Xá (nay thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội).
Người đầu tiên của dân Lai Xá mở hiệu ảnh ở Hà Nội là ông Nguyễn Đình Khánh. Ông mở hiệu ảnh mang tên “Khánh Ký” ở phố Hàng Da từ năm 1892. Sau đó ông Nguyễn Đình Khánh mở thêm hiệu ảnh ở Nam Định. Thợ giúp việc cho ông toàn người trong dòng họ làng Lai Xá. Cửa hàng Khánh Ký có lúc lên tới vài chục người vừa học vừa làm, hình thành nên một đội ngũ những người thợ ảnh, mà người hướng dẫn, đào tạo là ông Nguyễn Đình Khánh.
Có một chuyện khá thú vị về nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Khánh: Trong khi hành nghề ảnh, ông Khánh còn tham gia phong trào yêu nước Đông Kinh Nghĩa Thục. Do phong trào này bị lộ, năm 1911, ông trốn sang Pháp. Năm 1912, ông mở hiệu ảnh ở thành phố Toulouse, Pháp. Năm 1913, ông Raymond Poincaré đắc cử Tổng thống Pháp.
Trong rất nhiều tay máy chụp ảnh tân Tổng thống Pháp lúc đăng quang hôm ấy có ông Khánh và bức ảnh của ông đã được đánh giá là bức ảnh đẹp nhất, được đưa lên trang bìa một số báo, trong đó có bìa của tờ Illustration. Sau thành công đó, một cửa hiệu Khánh Ký khác được mở tại Paris. Vì thế, người dân làng Lai Xá từ đó tới nay vẫn tôn thờ cụ Nguyễn Đình Khánh là ông tổ nghề ảnh của làng.
Những năm đầu thế kỷ XX ấy người từ làng Lai Xá ra Hà Nội mở nhiều hiệu ảnh có tiếng khác như: Hiệu ảnh Luminor Photo của ông Nguyễn Văn Chảnh, hiệu ảnh Phúc Lai của ông Nguyễn Văn Đính, hiệu ảnh Minh Tân của ông Nguyễn Văn Bối…
Trong những năm từ 1945-1954, dưới thời Pháp, Hà Nội có rất nhiều hiệu ảnh, khó mà kể hết tên. Lúc ấy các hiệu ảnh nằm rải rác ở các nơi trong thành phố nhưng các hiệu ảnh có tiếng, đông khách đến chụp là các hiệu nằm ở khu vực các phố quanh hồ Hoàn Kiếm như hiệu Quốc Tế ở phố Hàng Khay, hiệu Tam Anh ở phố Hàng Gai, hiệu Kim Lai ở phố Đinh Tiên Hoàng…
Một kỷ niệm đáng nhớ với gia đình chúng tôi thời đó, vào khoảng năm 1952-1953, bức ảnh chụp chân dung bà cụ thân sinh ra nhà tôi, cụ Nguyễn Thị Nga, khi ấy mới là một thiếu nữ đôi mươi trẻ đẹp, đã được hiệu ảnh Tam Anh ở phố Hàng Gai treo làm ảnh mẫu ở vị trí mặt tiền khiến ai đi qua hiệu ảnh cũng nhìn ngay thấy. Bức ảnh mẫu ấy được treo mấy năm liền cho tới cuối năm 1954.
Thợ ảnh những năm 1990 tác nghiệp ở bờ hồ Hoàn Kiếm. Ảnh: TL. |
Sau khi Hà Nội được tiếp quản, đến năm 1959, cùng chính sách “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, các hiệu ảnh ở Hà Nội bắt đầu học tập để đi vào làm ăn tập thể. Các hợp tác xã nhiếp ảnh được thành lập từ các cửa hiệu ảnh…
Những năm tháng này, dân Hà Nội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu chụp ảnh tăng lên, đồng thời với nó là đội ngũ chụp ảnh “dạo” rất đông đảo. Những người chụp ảnh “dạo” ấy phần lớn là nam giới, tuổi trung niên, lác đác cũng có một vài “phó nháy” là phụ nữ.
Mặc dù đội ngũ chụp ảnh “dạo” xung quanh Bờ Hồ và một số địa điểm tham quan vui chơi khác của Thủ đô như Công viên Thống Nhất, Bách Thảo… khá đông, nhưng họ vẫn rất đắt khách. Bởi lẽ ai từ các tỉnh có dịp về chơi Hà Nội cũng thường ghé các nơi này và muốn có bức ảnh làm kỷ niệm. Vây quanh mỗi người chụp ảnh dạo thời ấy lúc nào cũng có vài khách đứng chờ.
Ngày ấy phim chụp và giấy ảnh rất khó khăn, thiếu thốn. Phổ biến là phim chụp xuất xứ Liên Xô nhãn hiệu “CBEMA”, hãn hữu lắm mới có phim “ORWO” của Đông Đức. Ảnh chụp phần lớn chỉ cỡ 3x4 cm, lịch sự hơn chút nữa thì 4x6 cm. Còn để có được bức ảnh cỡ 6x9 cm thì phải trả tiền đắt hơn nhiều! Ảnh chỉ có đen - trắng. Muốn có ảnh màu (thời ấy gọi là ảnh “cu-lơ”) thì phải mất tiền thêm cho thợ để họ dùng bút màu tô lên ảnh, nên các màu sắc trên bức ảnh không được đẹp tự nhiên như ảnh màu ta thấy bây giờ.
Cho đến các thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX, do chiến tranh, đời sống miền Bắc nói chung, Hà Nội nói riêng, rất thiếu thốn, việc chụp ảnh đám cưới vẫn chưa phổ biến. Khi ấy nhà nào tổ chức đám cưới mà “vời” được người thợ chụp ảnh đến phục vụ “bấm” cho mấy “pô” thì nhà đó phải có “điều kiện” lắm! Đến thập niên 80 thì đỡ hơn.
Dù đỡ hơn nhưng ở thập niên 80 ấy, cũng ít đám cưới nào có “điều kiện” dám chụp cả cuộn phim (36 kiểu) mà chỉ dám chụp vài “pô”. Một cuộn phim ông “phó nháy” có thể chụp cho mấy đám cưới! Giữa thập niên 80 bắt đầu manh nha ảnh màu, có được tấm ảnh màu lúc ấy là “thời thượng” ghê lắm!
Thế rồi thời cuộc thay đổi, sang thập niên 90, rồi thế kỷ XXI, máy ảnh kỹ thuật số cá nhân, rồi điện thoại thông minh tràn ngập trong dân chúng; ai, lúc nào, ở đâu… thích là có thể chụp ảnh được. Nghề chụp ảnh “dạo” ngày càng ế ẩm.
Có lẽ hiện nay ở Hà Nội còn bao nhiêu người chụp ảnh dạo thì phần lớn đều dồn về khu vực Hồ Gươm vì nơi đây vẫn nhiều khách vãng lai thăm Thủ đô, nhất là những ngày cuối tuần. Nhiều khách vãng lai thế nhưng cũng chẳng mấy ai có nhu cầu thuê thợ chụp ảnh. Người thợ ảnh đi cả ngày đến “mòn dép” cũng không mời được khách nào…
Những người chụp ảnh dạo vẫn lặng lẽ đứng đó. Có khi cả ngày họ cũng chẳng chụp được tấm hình nào cho khách. Ấy vậy mà ngày lại ngày, họ cũng có mặt tại Hồ Gươm từ rất sớm. Ngày nắng cũng như ngày mưa. Cho dù không có khách nào hỏi đến, cho dù phải lang thang, vạ vật cả ngày… Phải chăng chính tình yêu và niềm say mê với nghề, với những điều rất riêng của Hồ Gươm đã giữ họ còn ở lại với nghề?
Âu cũng là thời vận…