Theo tạp chí National Interest, tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Seawolf được đánh giá là một trong những tàu ngầm tốt nhất thế giới. Tàu được chế tạo dựa trên tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Los Angeles nhằm duy trì ưu thế trong lĩnh vực tác chiến dưới nước của Mỹ.
Vào cuối những năm 1980, Hải quân Mỹ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng lực lượng. Năm 1980, Liên Xô nhận được thông tin tình báo từ đường dây gián điệp John Walker rằng, Hải quân Mỹ có thể theo dõi hoạt động của tàu ngầm Liên Xô thông qua việc nghe tiếng ồn chân vịt.
Do đó, Liên Xô đã thúc đẩy chương trình tìm kiếm các máy móc tiên tiến để chế tạo chân vịt tốt hơn. Năm 1981, công ty Toshiba của Nhật Bản đã bán các máy CNC tiên tiến cho Liên Xô thông qua công ty Kongsberg của Na Uy.
Nhờ các máy móc tiên tiến của Nhật Bản, Liên Xô đã chế tạo chân vịt mới cho tàu ngầm tấn công hạt nhân Akula giúp giảm độ ồn hoạt động so với trước. Ngoài khả năng hoạt động cực êm, tàu ngầm lớp Akula của Liên Xô có thể lặn xuống tới 609 m, trong khi tàu ngầm Los Angeles của Mỹ chỉ có thể lặn tối đa 200 m.
Tàu ngầm bơm phun đầu tiên
Để chống lại mối đe dọa từ tàu ngầm Akula của Liên Xô, Mỹ đã xúc tiến chương trình phát triển tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Seawolf với nhiều tính năng ưu việt. Tàu được chế tạo từ thép HY100 có độ dày 5 cm giúp tàu ngầm có thể lặn sâu hơn.
Seawolf, tàu ngầm tiên tiến nhất của Hải quân Mỹ. Ảnh: Hải quân Mỹ |
Thép HY100 có độ bền cơ học và vật lý cao hơn khoảng 20% so với thép HY80. Tàu ngầm lớp Seawolf với thép mới có thể lặn sâu từ 731 đến 914 m. Seawolf có chiều dài 107 m, ngắn hơn 2,1 m so với lớp Los Angeles nhưng rộng hơn. Kết quả là lượng choán nước của tàu lớn hơn, khoảng 12.158 tấn.
Seawolf được trang bị lò phản ứng hạt nhân S6W cung cấp năng lượng cho 2 tuabin hơi nước với tổng công suất 52.000 mã lực. Seawolf là tàu ngầm đầu tiên của Mỹ sử dụng hệ thống bơm phun để di chuyển thay cho chân vịt, giúp tàu hoạt động êm và nhanh hơn.
Seawolf là tàu ngầm đắt nhất của Mỹ và thứ 2 thế giới. Ảnh: Hải quân Mỹ |
Tàu ngầm có thể di chuyển với tốc độ 18 hải lý/giờ khi nổi, lên đến 35 hải lý/giờ khi lặn, tàu có thể chạy chế độ im lặng ở tốc độ 20 hải lý/giờ. Seawolf được trang bị hệ thống định vị thủy âm BQQ 5D với mảng cầu phía trước và mảng gắn ở thân.
Tàu sử dụng sonar mảng kéo TB-29A để phát hiện các đối tượng phía sau và hệ thống sonar BQS-24 để phát hiện thủy lôi. Ban đầu, tàu sử dụng hệ thống dữ liệu chiến đấu BSY-2 với bộ vi xử lý Motorola 68030, về sau được thay thế bằng hệ thống AN/BYG-1 tiên tiến hơn.
Sát thủ thầm lặng
Seawolf được chế tạo với vai trò “thợ săn” dưới nước với 8 ống phóng ngư lôi, gấp đôi so với các tàu ngầm trước đó. Ống phóng này có thể phóng ngư lôi hạng nặng Mk48, tên lửa chống hạm Harpoon và tên lửa hành trình Tomahawk. Cơ số ngư lôi, tên lửa mang theo khoảng 50 quả.
Theo tiết lộ của Hải quân Mỹ, tàu ngầm lớp Seawolf có độ ồn khi hoạt động thấp hơn tới 10 lần so với phiên bản cải tiến của lớp Los Angeles và tới 70 lần so với phiên bản gốc của Los Angeles. Ngoài ra, Seawolf có thể chạy ở chế độ im lặng với tốc độ gấp đôi so các tàu trước.
Tuy vậy, việc trang bị các tính năng tiên tiến khiến chi phí chương trình tăng đột biến. Theo dự toán ban đầu, chi phí để đóng 12 tàu lên đến 33 tỷ USD, một khoản chi phí khó có thể chấp nhận trong bối cảnh mối đe dọa từ tàu ngầm Akula giảm sút theo sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991. Số lượng chế tạo từ 29 giảm còn 3.
Nhờ khả năng hoạt động cực êm của tàu ngầm Seawolf, Hải quân Mỹ đã sửa đổi tàu cuối cùng mang tên USS Jimmy Carter (SSN-23) bằng cách bổ sung thêm module nhiệm vụ đa năng (MMP) cho phép triển khai và thu hồi tàu ngầm không người lái, hoặc đặc nhiệm Navy SEAL trong các nhiệm vụ bí mật.
Kyle Mizokami, nhà phân tích quốc phòng tại San Francisco, nhận xét Seawolf là lớp tàu ngầm tấn công hạt nhân xuất sắc khiến các đối thủ như Nga, Trung Quốc phải “run sợ”. Seawolf chỉ được chế tạo với 3 tàu nhưng tàu ngầm này đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo ưu thế dưới nước cho Hải quân Mỹ.