Ở Trung Quốc, từ lâu truyện Tam quốc đã được lưu truyền trong dân gian. Người ta vẫn thường tập trung ở các quán trà để nghe các nghệ nhân kể chuyện về ba anh em Lưu, Quan, Trương. Đầu thời nhà Nguyên, các chương truyện riêng lẻ trong Tam quốc đã được tập hợp thành một bản hoàn chỉnh, có đầu cuối với nhan đề Tam quốc chí bình thoại.
Dựa trên các truyện kể dân gian và một số sáng tác trước đó, đến giữa thế kỷ 14, La Quán Trung đã viết nên tác phẩm đồ sộ là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, mà chúng ta vẫn thường biết đến với cái tên ngắn gọn hơn là Tam quốc diễn nghĩa.
Ngoài cứ liệu từ chuyện kể dân gian và các sáng tác của một số tác giả đi trước như: Trần Thọ và Bùi Tùng Chi, La Quán Trung đã đem nhiều trải nghiệm thực tế của mình vào sáng tác, đặc biệt là các chi tiết miêu tả tính cách cũng như ngoại hình các nhân vật. Vì thế, tác phẩm của ông đã tạo được sức hút lớn với độc giả và đánh bại các sáng tác trước đó.
Thế nhưng, có người cho rằng Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa không phải là sáng tác của La Quán Trung. “Cha đẻ” thật sự của bộ kỳ thư này là Thi Nại Am. Vậy những tranh cãi này từ đâu mà có?
Chuyện sư đồ và nhiều điểm tương đồng thú vị
Theo một số nguồn sử liệu, Thi Nại Am sinh năm 1296 ở Giang Tô. Năm 1331, ông đỗ tiến sĩ dưới thời vua Nguyên Văn Tông. Lúc này, kinh tế bắt đầu suy yếu, nội bộ triều đình lục đục, cộng thêm tin đồn về chuyện vua Văn Tông giết anh trai là Minh Tông để cướp ngôi khiến lòng dân càng thêm hỗn loạn.
Tác phẩm Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa của La Quán Trung, do dịch giả Trần Hoàng Vũ chuyển ngữ từ bản in năm 1522. Ấn bản này được xem là bản in cổ nhất của tác phẩm được lưu giữ đến ngày nay. Ảnh: Tri thức trẻ books. |
Sau khi đỗ tiến sĩ, Thi Nại Am tới huyện Tiền Đường thuộc phủ Hàng Châu nhậm chức huyện doãn. Nhưng chốn quan trường hủ bại làm ông nhanh chóng chán ghét. Mới làm quan được hai năm, Thi Nại Am đã xin cáo quan, về Hưng Hóa mở trường dạy học. Học trò của ông khá đông, trong đó có một người thông minh, giỏi ứng đối tên là La Bản, tự Quán Trung.
Khi Chu Nguyên Chương khai quốc lập nên nhà Minh, vị hoàng đế này có phái Lưu Cơ (tên húy của Lưu Bá Ôn) đến mời Thi Nại Am về kinh làm quan.
Lưu Bá Ôn và Thi Nại Am vốn có mối giao tình từ khoa thi tiến sĩ năm nào, nên thấy bạn đến chơi, Thi Nại Am lập tức bài tiệc rượu khoản đãi nhiệt tình. Nhưng chuyện làm quan thì một mực từ chối. Sau này, La Quán Trung cũng khước từ trước chốn quan trường giống như thầy của mình.
Ai mới là tác giả của bộ kỳ thư nổi tiếng?
Khi đến thăm nhà Thi Nại Am, Lưu Bá Ôn đã có cơ hội đọc Thủy hử và rất thích thú. Tuy nhiên, lúc này tác phẩm mới viết đến quyển thứ 36. Một thời gian sau, Thủy hử được in và lưu hành rộng rãi. Không may cho Thi Nại Am, sau khi đọc tác phẩm này, Chu Nguyên Chương vô cùng tức giận.
Không những giỏi kể chuyện, La Quán Trung còn là người có tài miêu tả. Ảnh: Watcha.com. |
Cộng thêm việc trước kia ẩn sĩ họ Thi từ chối ra làm quan, khiến đấng quân vương sinh tâm đa nghi, cho rằng ông quyết định tạo phản. Ngay lập tức, Thi Nại Am bị tống vào ngục, chờ ngày xử quyết.
Lúc này ông mới cầu cứu người bạn thân. Lưu Bá Ôn chỉ nhắn rằng: “Huynh vào ngục bằng cách nào, thì hãy từ đó mà đi ra”. Lúc này, Thi Nại Am mới nghĩ đến việc viết tiếp bộ Thủy hử, lèo lái câu chuyện theo hướng các anh hùng Lương Sơn đầu hàng triều đình.
Nhưng lúc này tác giả đang bị giam, nên việc biên soạn phần sau của Thủy hử, hay còn gọi là Tục Thủy hử do học trò của ông là La Quán Trung đảm nhiệm. Đây cũng là lý do khiến một số học giả nghĩ rằng: Phải chăng, bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa cũng do Thi Nại Am viết, La Quán Trung chỉ là người chỉnh lý mà thôi.
Đáng chú ý nhất là những cứ liệu trong cuốn Hưng Hóa huyện tục chí (biên soạn năm 1944) có chép bài Thi Nại Am mộ chí của Vương Đạo Sinh. Theo lời mộ chí này thì Thi Nại Am mới là tác giả của Tam quốc chí diễn nghĩa. Mộ chí viết rằng:
“Trứ tác của tiên sinh có:Chí dư, Tam quốc diễn nghĩa, Tùy Đường chí truyện, Tam Toại bình yêu truyện, Giang hồ hào khách truyện tức Thủy hử.
Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa đã nhiều lần được chuyển thể thành phim. Ảnh: Phim Tân Tam quốc năm 2010. |
Mỗi khi xong một sách, ắt đưa cho môn đệ hiệu đính, để sửa những chỗ sai ngoa. Trong số những đệ tử đắc lực thì La Quán Trung là người tham gia nhiều nhất. Anh hùng sinh trong thời loạn, thì tuy có kiến thức tựa như sông trong, cũng chẳng thể không ôm chí nguyện cho đến chết”.
Nếu dựa vào lời mộ chí của Vương Đạo Sinh thì Thi Nại Am mới là tác giả của Tam quốc diễn nghĩa và La Quán Trung chỉ là người hiệu đính. Tuy nhiên, bản in năm 1522 chỉ đề cập đến việc La Quán Trung là người biên soạn mà không nói gì đến Thi Nại Am. Tính xác thực của văn bản Thi Nại Am mộ chí là điều mà các học giả Trung Quốc vẫn còn đang tranh cãi.
Tào Tuấn Kiệt, Chu Bộ Lâu chủ trương đó là ngụy tác, vì bởi trong văn bản có nhiều câu chữ và danh xưng mang theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, Trần Truyền Khôn lại chỉ ra rằng những câu chữ và danh xưng đó đã tồn tại từ thời nhà Minh.
Điều mà chúng ta có thể nói chắc là nhiều tác phẩm được Vương Đạo Sinh cho là của Thi Nại Am thì cũng được nhiều nhà in thời Minh, Thanh xác nhận là tác phẩm của La Quán Trung, chẳng hạn như: Thủy hử, Tùy Đường chí truyện, Tam Toại bình yêu truyện.
Tuy nhiên, những tác phẩm tiểu thuyết trên đây có phải là của La Quán Trung hay không thì vẫn còn có nhiều ý kiến tranh cãi trái chiều. Ngay như Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa được sáng tác vào thời kỳ nào cũng là việc chưa xác định được cụ thể.
Phần lớn cho rằng: La Quán Trung viết Tam quốc diễn nghĩa là sau khi rời bỏ Trương Sĩ Thành. Cũng có thuyết cho rằng chính Chu Nguyên Chương đã sai La Quán Trung viết sách này để thay đổi phong tục, cảm hóa lòng người.
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu dựa vào các chú thích địa danh cổ với địa danh xuất hiện trong bản in 1522 và đã nhận thấy rằng: Ngoại trừ một số địa danh “hiện nay” là của thời Tống, còn lại toàn bộ là địa danh thời nhà Nguyên.
Một số địa danh sang thời Minh đã đổi thành tên khác. Đặc biệt, có một số địa danh gần địa bàn thông thuộc của tác giả như: Kiến Khang, Đàm Châu, Giang Lăng thì đến năm Thiên Lịch thứ hai (1329) thời Nguyên Văn Tông đã đổi thành tên khác, nhưng trong chú thích địa danh “hiện nay” vẫn dùng tên cũ.
Vì vậy, có khả năng Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa đã được biên soạn từ trước năm 1329. Do đó, người ta cho rằng tác phẩm được biên soạn thời Nguyên. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cố gắng dung hòa cả hai thuyết, cho rằng La Quán Trung đã biên soạn khoảng 12 quyển đầu từ trước, rồi đến đầu thời Minh mới hoàn thành bộ sách.
Từ khi La Quán Trung biên soạn Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, đã có nhiều người sao chép sách này để phục vụ nhu cầu thưởng lãm. Bản in cổ nhất ngày nay ta còn giữ được là bản in năm Nhâm Ngọ 1522, niên hiệu Gia Tĩnh .
Bản này có lời đề tựa của Dung Ngu Tử vào năm Giáp Dần, niên hiệu Hoằng Trị (1494), vì vậy nó còn đƣợc gọi là Minh Hoằng Trị bản Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa. Bản in chia thành 24 quyển, mỗi quyển 10 hồi, cộng là 240 hồi. Mỗi hồi là một câu chuyện gần như độc lập, xâu chuỗi với nhau tạo thành trường thiên tiểu thuyết.