Chiến tranh Thái Bình Dương được viết dưới dạng ký sự lịch sử, chủ yếu cung cấp những diễn biến lịch sử quan trọng trên mặt trận Thái Bình Dương của Chiến tranh thế giới thứ 2.
Không chỉ tái hiện lại khá đầy đủ bức tranh chiến trận khắc nghiệt, Chiến tranh Thái Bình Dương đã phần nào thể hiện được tinh thần samurai mạnh mẽ đến mức cực đoan của Nhật Bản.
Sự trung thành bất diệt của tinh thần võ sĩ đạo, điều làm nên tinh thần Nhật Bản, đã từng khiến Nhật Bản rớt xuống hố đen tuyệt vọng trong ảo mộng chiến tranh, cũng chính là sức mạnh khiến Nhật Bản vùng lên mạnh mẽ, khiến cả thế giới kinh ngạc.
Giấc mộng của Nhật Bản
Chiến tranh Thái Bình Dương bắt đầu từ Trân Châu Cảng, do Thủy sư Đô đốc Isoroku Yamamoto lên kế hoạch.
Cuốn sách Chiến tranh Thái Bình Dương. |
Tháng 4/1941, kế hoạch của Yamamoto chính thức được mang mật danh là “Chiến dịch Z”. Sau nhiều hội nghị và tranh cãi, đến đầu tháng 11, lực lượng của hạm đội hàng không số 1 đã tập trung ở thành phố cảng Kagoshima.
Kể từ đêm 18/11, bốn đội tàu ngầm lần lượt xuất phát tiến về phía quần đảo Hawaii. 6h sáng ngày 26/11, toàn bộ lực lượng đặc nhiệm của Z đã nhổ neo bước vào chiến dịch.
Đúng 7h 53, thời khắc chuẩn bị cho trái bom đầu tiên rơi xuống Trân Châu Cảng đã hoàn tất, “cuộc tấn công đảm bảo hoàn toàn bất ngờ”.
Tấn công vào Trân Châu Cảng, quân Phiệt Nhật đã chính thức gây chiến trên mặt trận Thái Bình Dương, mở màn cho những năm chiến tranh đau thương, chết chóc.
Quân phiệt Nhật lần lượt đánh chiếm Mã Lai, Thái Lan, Singapore, Hong Kong, Philippines, Miến Điện… Vào giữa tháng 3/1942, Nhật Bản đã giành thắng lợi trên nhiều chiến trường ở Đông Nam Á.
Từ Đông Nam Á và tây Thái Bình Dương, các lực lượng Nhật Bản liên tục tiến xa mãi về phía Nam, càng uy hiếp Úc nặng nề hơn.
Đầu tháng 5/1942, “chiến dịch MO” do Phó Đô đốc Shigeyoshi Inoue chỉ huy bắt đầu được thực hiện nhằm đánh chiếm hải cảng Moresby trên bờ nam đảo Guinea, thuộc biển San Hô, nhưng chiến dịch này, Nhật đã “không gặp may”.
Lần đầu tiên kể từ Trân Châu Cảng, một cuộc tiến công của Nhật đã bị đánh bại. Đây chính là những báo hiệu cho sự bại trận sau này của Đế quốc quân phiệt Nhật.
Kế tiếp, sự thất bại của trận đánh Midway đã khiến Hải quân Hoàng gia mất đi “quả đấm thép”. “Người Mỹ bảo vệ được “con đê” của họ, giữ được quyền kiểm soát Thái Bình Dương và từ nay không lùi bước nữa”.
Thất bại thảm hại
“Tôi lo lắng cho tương lai đất mẹ
Khi cỏ xanh phủ kín xác thân mình”
Hai câu thơ của Tướng Tadamachi Kuribayashi đã phần nào diễn tả được trạng thái của đất nước, con người Nhật Bản trong giai đoạn sau của chiến tranh Thế giới thứ 2, trên mặt trận Thái Bình Dương.
Trận hải chiến ở vùng biển Mariana, hạm đội cơ động Nhật mất 92% số máy bay, chìm ba tàu sân bay và 50% số máy bay của đảo Guam bị phá hủy.
Trong tình thế tuyệt vọng của trận chiến, những sĩ quan tham mưu của Nhật đều quyết định hara kiri (mổ bụng tự sát, một truyền thống của samurai Nhật Bản khi thua trận). Những người còn lại quyết định cuộc tiến công “tự sát”, đánh Mỹ cho đến người cuối cùng.
Ngày 7/7/1944, hơn 3.000 người Nhật, “binh lính và thường dân, với đủ loại vũ khí, từ súng trường, súng lục đến gươm và gậy tre vót nhọn xông đến bờ biển tiến công các hậu cứ quân Mỹ”.
Cảnh tượng hoang tàn của Hiroshima sau khi Mỹ thả bom nguyên tử. |
Tổng số gần 30.000 dân Nhật sống trên đảo, “có khoảng 22.000 người tự sát tập thể bằng cách đứng từ trên các mỏm núi cao nhảy xuống biển”.
Nhật Bản đã bại trận, nhưng vẫn ngoan cố trên khắp các mặt trận, với những cuộc chiến tranh đau thương, gây tổn thất nặng nề cả về người và của.
Trận thảm hại của quân đội Nhật ở Iwo Jima, khi trong tổng số 21.000 quân Nhật trú phòng, chỉ còn khoảng 3.000 người sống sót đã gây nên nhiều phản ứng khác nhau làm chấn động chính trường Nhật Bản.
Tình hình đen tối ấy đã buộc Nhật hoàng phải đưa ra quyết định “mưu cầu hòa bình”, nhằm cứu đất nước, dân tộc Nhật khỏi thảm họa diệt vong.
Cúi đầu “mưu cầu hòa bình”
Nhưng trong tình thế bại trận thảm hại, quá trình “mưu cầu hòa bình” của chính phủ Nhật, là hành trình gian nan, đau thương vô cùng.
Trên đà thắng lợi, Mỹ tấn công vào Okinawa. Đây là “một ngã tư quốc tế ở Đông Á, nằm giữa Trung Hoa (lục địa), Đài loan và Nhật”, có vị trí vô cùng quan trọng trong chiến tranh Thái Bình Dương.
Trận Okinawa cũng là trận đánh cuối cùng của hải quân Nhật. Trong tình thế lấn át của Mỹ, trận chiến này cũng được xem là “một quyết định tự sát”. Tham mưu trưởng hạm đội Liên hợp, Phó Đô đốc Ryunosuke Kusaka đã phản đối sự hi sinh vô ích này vì “muốn dành lực lượng cho những trận đánh sắp tới ở ngay trên đất mẹ”, nhưng với sự cố chấp bảo vệ tinh thần võ sĩ đạo, đa số vẫn quyết định đánh đến chết.
Ngày 2/7, trận chiến Okinawa chính thức chấm dứt. Suốt ba tháng chiến đấu, “phía Nhật mất đi hơn 100.000 quân. Dân đảo Okinawa, do bị bom đạn, bị đau ốm và tự sát bằng cách từ trên cao nhảy xuống biển, chết đến 75.000 người (một phần tám dân số trên đảo)”.
Phòng tuyến nơi cửa ngõ bảo vệ nước Nhật đã bị chọc thủng, Mỹ đánh thẳng vào nước Nhật với những cuộc ném bom thẳng tay ở thủ đô Tokyo cùng với nhiều thành phố lớn khác trên khắp Nhật Bản.
Khi hội nghị thượng đỉnh ở Potsdam đã đưa ra bản “Tuyên cáo Potsdam”, yêu cầu Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, Nhật Bản bị đặt ra vào tình thế buộc phải lựa chọn. Nhưng trước tình thế ấy, Mỹ đã thí nghiệm thành công Bom “A” (bom nguyên tử), kiên quyết đánh Nhật Bản đến cùng.
Việc Mỹ thả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima vào 8 giờ 15’17” ngày 6/8/1945 đã khiến Nhật Bản sụp đổ. Người dân Nhật khóc than trong đống hoang tàn đổ nát. Sức chịu đựng đã đi đến giới hạn cuối cùng. Người chết chồng lấp lên nhau, người sống còn chưa thể tin vào cơn ác mộng vừa trải qua.
Nhật Bản đầu hàng đồng minh vô điều kiện. |
Tại cuộc họp Nội các kéo dài từ 14 giờ 30 chiều đến 21 giờ 30 tối, “Thủ tướng Suzuki đã buộc phải lựa chọn giải pháp cuối cùng mà ông cùng một số thuộc cấp đã trù tính: Tổ chức Hội nghị Đế chế của Hội đồng Quốc phòng tối cao với sự hiện diện của Hoàng đế để dành quyền quyết định cho Nhật hoàng - một điều vượt ra ngoài hiến pháp Nhật Bản”.
Khi Nhật Bản còn loay hoay với kế hoạch cầu hòa, Mỹ tiếp tục thả thêm một quả bom nguyên tử hủy diệt thành phố Nagasaki. Màu tang tóc thảm thiết bao trùm đất nước Nhật Bản. Khắp nơi cầu khẩn xin Nhật hoàng hãy ra lệnh ngừng chiến tranh.
Trước tình thế này, Nhật Bản buộc phải chấp nhận các điều khoản của Potsdam cho dù cảm giác “thực là nhục nhã và đau đớn vô cùng”.
Dẫu còn nhiều ý kiến tranh cãi về việc chấp nhận “cầu hòa” vô điều kiện, nhưng Nhật hoàng đã đưa ra quyết định cuối cùng. “Nếu chiến tranh chấm dứt ngay bây giờ, đất nước còn có cơ hội hồi sinh”, cũng là mưu cầu một tương lai “mọi người cùng chung lưng đấu cật, quyết tâm đoàn kết nhất trí thì chúng ta sẽ dễ dàng hồi sinh lại nước Nhật”.
Lễ ký kết chính thức văn bản đầu hàng của Nhật được tổ chức vào sáng ngày 2/9/1945 trên thiết hạm Misouri của Hoa Kỳ thả neo tại vịnh Tokyo. Chiến tranh Thái Bình Dương, màn cuối của Chiến tranh thế giới thứ 2 đã kết thúc.
Nước Nhật đã hoàn toàn kiệt quệ sau chiến tranh, sự bại trận nặng nề ấy cũng đã thể hiện dấu ấn dân tộc mạnh mẽ, đồng thời để lại những bài học không thể nào quên cho Nhật Bản.
Chiến tranh Thái Bình Dương được biên soạn bởi hai tác giả Lê Vinh Quốc và Huỳnh Văn Tòng. Cuốn sách có thể trở thành tài liệu tham khảo quý giá cho những người yêu lịch sử, đồng thời muốn tìm hiểu về chiến tranh thế giới thứ 2, cũng như đất nước Nhật Bản.