Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Nước giải khát Hà Nội một thời

Đó là những thứ nước giải khát “thần thánh” vốn là mơ ước của một thời cách đây đã trên dưới nửa thế kỷ.

Huong xua vi cu anh 1

Một quầy giải khát gợi nhớ thời bao cấp. Nguồn: thoidai.

Có lẽ lứa trẻ thế kỷ XXI ở Hà Nội không bao giờ có thể tưởng tượng nổi rằng thời xưa, cái thời bao cấp chiến tranh ấy, có cốc nước chanh đường để uống thì coi như được trao thưởng giấy khen học sinh giỏi.

Hoặc là phải sinh bệnh ốm, mới được ăn phở, uống nước cam. Đấy là những gia đình có điều kiện. Còn không, các bà mẹ nghèo cũng phải cố kiếm lạng đường chợ đen pha cốc Vitamin C hòa lẫn mấy viên B1 giải khát, tẩm bổ cho con.

Ở những chốn sơ tán tránh bom khỉ ho cò gáy, còn gì hơn thế nữa. Tưởng tượng lại hương vị những cốc “nước giải khát kiêm thuốc bổ” như thế mà rùng mình liên tục, liên tục.

Nhà tôi, những năm sau 1960, có mở cửa hàng sửa chữa, buôn bán phụ tùng xe đạp, xích lô, xe thồ. Khách đông đúc suốt ngày.

Đa phần là khách bình dân và bà con tiểu thương Hà Nội cùng các tỉnh thành lân cận. Sớm chiều hai buổi, mẹ tôi đều ủ hai ấm chè tươi nước xanh biếc để đãi khách. Nhưng cũng có khi mưa bão hay lũ lụt, bà con nông dân Phú Thọ không ra đồi hái chè xanh, hoặc tàu hỏa từ mạn ngược về nhỡ chuyến, chè xanh ngoài chợ không có thì mẹ tôi sẽ hãm nước lá vối khô, hay nụ vối, hoặc chè hạt mua ở chợ Hàng Bè để đãi khách.

Thích nhất là có khi gặp bà khách mạn Hưng Yên, Bắc Ninh sang cất hàng đem cho một tay nải nụ vối tươi hái từ cây nhà trồng. Mẹ tôi mừng lắm, đem chia nhỏ biếu mấy nhà họ hàng trong phố cổ và tãi ra gầm phản nhà dưới để hãm nụ vối tươi được vài ba ngày.

Nước nụ vối đã vừa đẹp lại vừa thơm. Màu nước vàng hanh hanh, trong vắt, ngọt dịu. Chỗ nụ vối còn lại, mẹ rải ra vài ba cái mẹt tre đem phơi trên gác thượng mấy nắng cho thật khô, rồi đem cất vào mấy chiếc vỏ hộp sữa Guigoz đặt vào chạn trên, để dùng dần những khi nhỡ bữa chè tươi. Với mẹ tôi, chè tươi vẫn là thứ nước uống tốt nhất, hợp giọng nhất, đáng để chung thủy đến cuối đời. Chè mạn Hà Giang hay chè Thái Nguyên khô thời ấy rất hiếm.

Một vài năm, bà lại giở ra ướp trà Thái Nguyên với hoa nhài Ngọc Hà hay ướp trà mạn Hà Giang với hoa sen Tây Hồ để đem biếu thông gia và khách quý cũng như dâng cúng trên ban thờ những ngày giỗ Tết. Chứ mà chè khô gói giấy vuông Ba Đình hay thậm chí Hồng Đào của mậu dịch bán theo phiếu hàng Tết, mẹ tôi chê hết. “Uống phí mồm” - mẹ thường nói thế, hễ có thì chỉ đem đi cho mà thôi.

Thế nên, nếu nhà có khách quý, thật quý, mẹ mới trịnh trọng lôi chai nước cốt mơ ngâm hay dâu ngâm, sấu ngâm cất kỹ đem rót đôi ba thìa đặc sánh, thơm lựng, hòa vào lưng cốc nước lọc đun sôi đựng trong những chiếc vỏ chai rượu mậu dịch Tết dành dụm được, trên có nắp bồ đài bằng giấy vở cũ dán lại hình chóp nón, rồi bê ra mời khách. Thế là nhất. Làm gì có viên đá lạnh nào.

Thời ấy, cả Hà Nội chỉ lác đác có một số chiếc tủ lạnh Xaratốp do người đi học đi làm từ Liên Xô mang về. Khi cắm điện khởi động, chúng kêu òng ọc như bò rống. Mãi đến sau năm 1975 giải phóng miền Nam, Hà Nội mới xuất hiện những chiếc tủ lạnh đầu tiên do các hãng tư bản sản xuất. [...]

Còn trước đó, chủ nhật đến, nếu nhà nấu nồi chè đỗ đen hay pha chai si rô lựu mậu dịch, thì bà mẹ sẽ sai đứa con nhỏ chạy ra cổng Nhà máy Nước đá trên phố Trần Quang Khải xếp hàng mua mấy hào đá mậu dịch. Nhìn những khối đá nửa đục nửa trong nặng hàng tạ mà công nhân quăng đầy trên vỉa hè, móc sắt kéo lê chất lên xe phủ bao tải mang đi mà chả hề biết sợ bẩn. Bê chậu đá về đến nhà có khi tan mất đến một phần ba. Vẫn thích mê. Hoặc ra những chỗ gọi là “tổ phục vụ” trên các phố mua vài hào đá, cục đá lẫn trong đám vỏ trấu trông bẩn bẩn. Nhưng chả sao. Có là tốt. […]

Nhưng khu phố cổ ngày ấy, những năm thuộc thập niên bảy mươi của thế kỷ trước cũng vẫn còn những hàng nước giải khát đẩy xe hoặc bán tại chỗ của người Tàu như Bát bảo lường xà hay nước gạo rang, nước mía ép mang hương vị thơm ngon khá đặc biệt. Nhất là hàng chè đỗ đen đá mang tên Cắm Sìn phố Mã Mây thì dù mùa hè hay mùa đông vẫn cứ đông khách nườm nượp. Chè ngọt đậm, đỗ nhừ tơi, thêm chút dừa sợi bùi ngậy, mấy miếng thạch găng mát rượi, cùng mấy hạt trân châu giòn sừn sựt, tí dầu chuối thơm nức. Nhà mình cố công đun nấu kiểu gì cũng chả được như thế. […]

Món đồ giải khát được đám trẻ em Hà Nội ưa thích nhất có lẽ là kem. Mùa hè đến, xung quanh các quán kem Long Vân, Hồng Vân, Hòa Bình, Cẩm Bình, Tràng Tiền, quanh bờ Hồ Gươm và trên các phố cổ, phố cũ đông nghịt người xếp hàng, cứ gọi là vòng trong vòng ngoài chả hết. Lúc không có tiền ăn kem thì cũng quanh quẩn ở đâu đó nhặt que kem về rửa sạch, vót tròn làm que tính cho môn toán lớp vỡ lòng đến cấp một.

Bên cạnh đó, trên các đường phố còn có những hàng kem bán rong do các chú bé nhà nghèo đeo những thùng kem to tướng, rao lảnh lót, lảnh lót:

- Ai kem đê! Ai kem đê!

Loại kem đó thường là kem si rô dâu màu hồng hay kem hương cốm hóa học màu xanh. Thành phần toàn đá là chính, chạy qua hàng đường sữa cho có mà thôi. Dù thế, con cái các gia đình nghèo vẫn rất thích. […]

Nói đến những món nước giải khát Hà Nội thời bao cấp, không thể không nhắc đến những quán bia hơi mậu dịch xếp hàng vòng trong vòng ngoài ở các điểm như Cổ Tân, Đường Thành, Phố Huế. Bia 3 hào một cốc giữ giá khá lâu. Đấy là chốn tụ hội đủ mặt các văn nghệ sĩ trí thức cho đến cánh lao động bình dân.

Tôi hồi bé và mấy đứa em thường cũng phải xếp hàng mua bia về cho bố mẹ uống, chứ bố mẹ tôi mải làm lụng không ra quán bao giờ. Bia được đựng vào chiếc bình tông Liên Xô màu cứt ngựa đóng đai dây bạt rất bền. Hôm nào cô mậu dịch viên rót tử tế thì được bình tông đầy, được bố mẹ khen. Hôm nào cô mậu dịch viên vội vàng rót ẩu, bọt trào ra ngoài, bình bia chỉ còn độ hơn nửa là bị ăn mắng oan.

Ngoài ra còn phải đem theo cái cặp lồng để đựng đậu rán hay lạc rang bán kèm bia. Khi đem về đến nhà thì lạc ỉu, đậu nguội, lại bị ăn mắng oan vì bố mẹ tưởng chị em tôi mải chơi dọc đường, la cà vườn hoa Con Cóc với vườn hoa Chí Linh. Cái cụm từ mai mỉa “bia kèm lạc” ra đời đích thị là từ những quán bia mậu dịch như thế.

Nhưng phải nói là trong các món bán kèm với bia mậu dịch ngày ấy, chỉ có món nộm đu đủ thịt bò khô là ngon nhất, cũng ngang ngửa với món nộm thịt bò khô phố Hồ Hoàn Kiếm của mấy nhà gốc người Tàu. Nhưng bố mẹ tôi lại không mấy ưa món nộm đó. Cho nên đứa nào đi mua bia về thì hay được chấm mút một ít. Húp cứ gọi là chả còn sót tí nào thứ nước nộm cay xé lưỡi ấy.

Vũ Thị Tuyết Nhung / Tri thức Trẻ Books - NXB Hà Nội

SÁCH HAY