Những năm đầu Thế chiến II, hạm đội tàu ngầm U-boat của Đức quốc xã “làm mưa làm gió” trên khắp các đại dương, đánh chìm nhiều tàu chiến và tàu hàng của phe Đồng minh. Trong lúc quay cuồng tìm giải pháp đối phó, Hải quân Hoàng gia Anh đã đề xuất một ý tưởng có phần “điên rồ” là chế tạo một tàu sân bay làm từ băng. Ý tưởng táo bạo này đã được Thủ tướng Anh Winston Churchill chấp thuận.
Vật liệu chiến lược
Năm 1942, tại chi nhánh của Phòng Chiến tranh Anh, một nhà khoa học "lập dị" có tên Geoffrey Pyke cố gắng tìm cách bảo vệ tàu chiến của phe Đồng minh tại “hẻm thuyền”, một khu vực ở Đại Tây Dương, nơi tàu ngầm Đức quốc xã chuyên phục kích và đánh chìm nhiều tàu chiến.
Tàu chiến được chế tạo từ thép có thời gian sử dụng ngắn, dễ bị nước biển ăn mòn. Vì vậy, ông Pyke nghĩ về việc cắt băng ở Bắc Cực và kéo nó về phía nam để triển khai máy bay lên đó. Ở thời điểm đó, băng được xem gần như không thể phá hủy. Điều này được củng cố bởi sự cố băng trôi đâm chìm tàu Titanic vào năm 1912.
Một phần bản vẽ tàu sân bay làm từ băng. Ảnh: CNN. |
Một số báo cáo nói rằng băng rất khó phá hủy, ngay cả với ngư lôi và bom cháy. “Pyke nghĩ rằng băng là vật liệu chiến lược, có thể giúp phe Đồng minh giành chiến thắng trong cuộc chiến và Churchill đã sẵn sàng phiêu lưu với ý tưởng này”, Susan Langley, giáo sư tại Cao đẳng St. Mary Maryland, Mỹ nói với CNN.
Pyke gọi thiết kế đầy tham vọng này là HMS Habbakuk, phỏng theo tên nhà tiên tri Habakkuk. Đây là người đã viết trong kinh Cựu ước rằng “Bạn sẽ hoàn toàn ngạc nhiên, vì tôi sẽ làm điều gì đó trong ngày mai mà bạn sẽ không tin, ngay cả khi bạn được nghe”.
Tàu chiến lớn nhất lịch sử
Chế tạo một tàu chiến bằng băng không phải là việc dễ dàng. “Nếu bạn muốn phóng máy bay khỏi một cái gì đó, nó phải cao hơn 15 m so với mặt nước. Những tảng băng trôi có đến 90% khối lượng ngập trong nước, có nghĩa là gần 152 m dưới mặt nước”, Langley nói.
Một con tàu như thế gần như không thể di chuyển. Khi băng ở trên đỉnh tan dần, trọng tâm bị lệch và nó sẽ quay, gây khó khăn cho máy bay hạ cánh trên đó. Bên cạnh đó, một tàu sân bay cần có nhà chứa và nhiều thiết bị khác.
Mô hình tàu sân bay làm từ băng sau khi hoàn thành. Ảnh: Illustrated London News Ltd/CNN. |
Vì vậy họ quyết định xây dựng một con tàu với vỏ làm từ băng, các hệ thống còn lại xây dựng như bình thường. Vỏ băng sẽ được giữ đông thông qua hệ thống làm lạnh. Tàu chiến được đề xuất sẽ là chiến hạm lớn nhất lịch sử với chiều dài hơn 600 m, rộng gần 70 m, lớn gấp 2 lần tàu Titanic.
Tàu có lượng choán nước tới 2 triệu tấn, đủ chỗ cho 300 máy bay hoạt động. Tàu có thể di chuyển trên biển với tốc độ 7 hải lý/giờ và chịu được sóng cao 15 m, cho Churchill vũ khí bí mật chống lại tàu ngầm U-boat của Đức.
Thủ tướng Churchill phê duyệt dự án vào ngày 4/12/1942 với một bản ghi nhớ được phân loại tối mật nhất và yêu cầu xây dựng một nguyên mẫu.
Dự án điên rồ
Anh cần băng để xây dựng tàu, vì vậy họ tìm đến Canada, quốc gia gần Bắc Cực để được trợ giúp. Chương trình xây dựng nguyên mẫu được giao cho Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia. Người phụ trách CJ MacKenzie gọi bản thiết kế tàu sân bay băng là một trong “những kế hoạch điên rồ nhất”.
Ông chọn hồ Patricia trong Vườn Quốc gia Jasper ở Alberta, miền Tây Canada làm địa điểm thử nghiệm. Khu vực này có sẵn rất nhiều băng cùng nguồn lao động tại chỗ dồi dào. “Những lao động địa phương được tuyển dụng cho dự án không biết họ đang làm gì. Họ gọi nó là “Noah's Ark” ( con thuyền được nhắc đến trong Kinh Thánh). Họ chỉ biết nó là một nỗ lực cho chiến tranh nhưng không biết chính xác là gì”, Langley nói.
Hồ Patricia, nơi dự án tàu sân bay băng được thử nghiệm. Ảnh: CNN. |
Đến đầu năm 1943, một nguyên mẫu dài 18,2 m được xây dựng. Nó giống như một chiếc hộp đựng giày lớn, với khối băng khổng lồ ở giữa và các đường ống làm lạnh chạy xung quanh. Một mái che được lắp phía trên để bảo vệ cấu trúc và ngụy trang nó như một ngôi nhà thuyền.
Mẫu thử nghiệm có vẻ khả thi nhưng không phải mọi thứ đều suôn sẻ. Các ống làm lạnh dễ phát sinh hỏng hóc, khó duy trì nhiệt độ lạnh cho khối băng. Vật liệu băng cũng bị nghi ngờ về sức mạnh và khả năng tồn tại của cấu trúc, đặc biệt trong môi trường nhiệt độ cao.
Chết yểu vì 3 yếu tố
Cuộc thử nghiệm cho thấy xây dựng một tàu chiến làm từ băng là có thể nhưng từ giữa năm 1943, dự án bắt đầu chết dần dựa trên sự kết hợp của 3 yếu tố. Theo giáo sư Langley, đầu tiên, Iceland có thể sử dụng như một căn cứ lâu dài ở Bắc Đại Tây Dương, do đó nhu cầu về tàu sân bay không quá cấp thiết.
Phần còn lại của tàu sân bay băng dưới đáy hồ Patricia. Ảnh: Getty. |
Thứ hai, các máy bay mới có thể bay xa hơn được xuất xưởng. Cuối cùng, sự phát triển của radar cho phép theo dõi chính xác sự di chuyển của tàu ngầm Đức. Cuộc chiến bắt đầu có lợi cho phe Đồng minh. “3 yếu tố trên đã làm cho tàu sân bay băng trở nên lỗi thời trước khi nó đạt được thành quả. Dự án là khả thi nhưng không phải ở quy mô và tốc độ và Churchill muốn”, giáo sư Langley nói.
Tháng 6/1943, tất cả thử nghiệm ở Canada được lệnh dừng lại. Các máy móc làm lạnh bị tháo bỏ, chỉ còn lại phần khung cho đến khi băng tan và nó chìm xuống hồ. Giáo sư Langley, cũng là nhà khảo cổ dưới nước đã nghe được cuộc trò chuyện vào năm 1982, về tàu sân bay làm từ băng vẫn còn ở hồ Patricia.
Bà cùng một số thợ lặn đến hồ Patricia và phát hiện dự án là có thật chứ không chỉ tồn tại trên lý thuyết. Phần còn lại của tàu chìm trên đường chéo có độ sâu từ 25-30 m. Nó cho thấy người ta đã bắt tay xây dựng một dự án được gọi là “điên rồ” chứ không chỉ nói suông.