Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Những phát minh về thuốc cứu nhân loại

Viagra, hiện tiêu thụ bởi hàng triệu đàn ông khắp thế giới để hỗ trợ quan hệ tình dục, đã được phát triển thuở ban đầu từ việc chữa đau thắt ngực.

Thuốc zidovudine được phát triển vào giữa những năm 1960 như tác nhân kháng ung thư. Sau đó vào năm 1985, khi các nhà khoa học đang tìm kiếm thứ gì đó có thể ngăn ngừa được sự lây truyền virus HIV, zidovudine đã chứng tỏ mình có đặc tính kháng virus.

Nó trở thành loại thuốc đầu tiên được cấp phép để chữa viêm nhiễm do virus AIDS, chiếm lĩnh thị trường trong thời gian kỷ lục - tên gọi “AZT” vào năm 1987 - dưới sự thúc ép liên tục từ các nhà hoạt động chống AIDS.

Một ví dụ khác, viagra, hiện đang được tiêu thụ bởi hàng triệu đàn ông trên khắp thế giới để hỗ trợ quan hệ tình dục, đã được phát triển thuở ban đầu như một phương thức chữa bệnh đau thắt ngực - chứng đau thắt ở ngực liên quan đến vấn đề tim mạch - nhưng người ta tìm thấy một tác dụng khác của nó khi những người đàn ông tham gia thử nghiệm thuốc báo cáo rằng họ nhận thấy sự cương cứng mạnh và kéo dài (một số người tham gia thậm chí từ chối trả lại thuốc còn dư khi thử nghiệm kết thúc).

Gia di anh 1

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Anna Shvets/Pexels.

Một ví dụ nữa là thalidomide. Thứ thuốc này, gây ra dị tật sơ sinh nghiêm trọng vào cuối những năm 1950 đầu 1960 khi các thai phụ uống để chữa chứng ốm nghén, vốn ban đầu được phát triển như một loại thuốc ngủ.

Bất chấp sự liên hệ của nó với những cuộc đời bi thảm và những cuộc tranh cãi dữ dội ở tòa án, thalidomide ngày nay được sử dụng dưới nhiều tên gọi khác nhau để chữa một biến thể của bệnh phong, còn gọi là ENL (erythema nodosum leprosum), với biểu hiện là các vết nhọt lớn, rất đau đớn và viêm nghiêm trọng.

Hiệu quả chữa bệnh của thalidomide được phát hiện hết sức tình cờ. Trong bài viết đánh giá về tái sử dụng thuốc cho mục đích khác trên tạp chí Nature, Ted Ashburn và Karl Thor đã kể lại việc làm thế nào mà vào năm 1964, Jacob Sheskin, một bác sĩ tại Pháp, đã lục tung tủ thuốc tìm thứ gì đó cho bệnh nhân phong đang chịu nhiều đau đớn từ ENL đến mức không thể ngủ được nhiều tuần liền.

Khi tìm được thalidomide, ông đưa cho bệnh nhân một liều, và trước sự ngạc nhiên của ông, loại thuốc này không những cho bệnh nhân giấc ngủ ngon, mà dường như các u nhọt gây đau đớn cũng biến mất. Sau đó, Sheskin đã kiểm chứng lại hiệu quả của thalidomide trong một thí nghiệm mù kép với các bệnh nhân phong bị ENL.

Đến giữa những năm 1990, loại thuốc này được phát hiện có khả năng ức chế sự hình thành mạch - sự phát triển của các mạch máu - và ngày nay người ta sử dụng nó để chữa các bệnh ung thư phụ thuộc vào việc tự hình thành mạch máu để tồn tại và lan rộng.

Bởi bề dày lịch sử của nó trong các thử nghiệm lâm sàng và tác dụng của nó đối với bệnh phong, người ta ước tính cần khoảng 40-80 triệu đôla Mỹ để có được sự chấp thuận của FDA cấp phép sử dụng thalidomide để chữa đa u tủy, ung thư tế bào bạch cầu, con số này khá khiêm tốn so với mức giá 2 tỷ đôla Mỹ, mức giá thông thường để đưa một loại thuốc hoàn toàn mới ra thị trường.

Chỉ trong thập kỷ vừa qua, việc tái sử dụng với mục đích khác cho những loại thuốc có sẵn đã phát triển đáng kể. Và đó chính là ý tưởng đằng sau chương trình đầu tiên và duy nhất tới thời điểm này nhằm kiểm tra thuốc điều trị lão hóa - thứ gì đó tấn công vào tận gốc rễ của vấn đề hơn là chỉ chữa những bệnh riêng lẻ khác liên quan đến tuổi già.

Chương trình này, gọi tắt là TAME (Targeting Aging with Metformin), đã hình thành trong buổi thảo luận của một nhóm các nhà thần kinh học, nhóm họp trong một khách sạn phục dựng từ một lâu đài thời trung cổ ở vùng đồng quê Tây Ban Nha vào năm 2013, để bàn bạc xem làm sao đưa các thành quả nghiên cứu của họ ra khỏi phòng thí nghiệm đến các bệnh viện.

Sue Armstrong/NXB Trẻ

SÁCH HAY