Gần 70% doanh nghiệp dệt may Việt Nam bị nhãn hàng phạt vì giao hàng chậm. Lo sợ nguy cơ chậm trễ sản xuất, một số nhãn hàng thậm chí đã phải chuyển đơn ra nước ngoài.
Đây là kết quả khảo sát được đưa ra tại tọa đàm “Chung sức vì sự phục hồi bền vững ngành dệt may - da giày Việt Nam” chiều 8/10. Tọa đàm do Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) và Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso) đồng tổ chức
Theo thống kê tháng 9, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ước đạt 3,06 tỷ USD, giảm 8,15% so với tháng 8 và 8,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu da giày của Việt Nam trong tháng 9 chỉ ước đạt 920 triệu USD, giảm 8% so với tháng 8 và 35,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Làn sóng lao động di cư
Ông Trương Văn Cẩm, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), cho biết bên cạnh tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế, khối doanh nghiệp dệt may, da giày còn đối diện với vấn đề thiếu nhân công trầm trọng khi người lao động có xu hướng về quê tránh dịch.
Trong khi đó, đây là một trong những ngành sử dụng nhiều lao động nhất tại Việt Nam. Ngành dệt may có khoảng 2 triệu lao động, chiếm 25% trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Khối da giày sử dụng khoảng 1,4 triệu lao động, chiếm 18,2%. Đáng chú ý, có tới 1,5 triệu người kinh doanh thương mại dịch vụ liên quan đến 2 ngành.
Tuy nhiên, sự bùng phát của Covid-19 vào cuối tháng 4, đã khiến 28 tỉnh thành phố thực hiện giãn cách và phong tỏa theo chỉ thị 15, 16 với mức độ khác nhau, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa, thu hẹp sản xuất, người lao động mất việc làm.
“Ước tính khoảng 1,2 triệu người lao động trong các khu phong tỏa thuộc ngành dệt may, tức 65% lao động toàn ngành, ngành dệt may cũng tương tự”, đại diện VITAS thông tin.
Khoảng 3,4 triệu người lao động đang làm việc trong ngành dệt may, da giày. Ảnh: Phạm Ngôn. |
Theo ông Nhạc Phan Linh, Phó viện trưởng Viện Công nhân Công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, để duy trì sản xuất, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng các phương án như “3 tại chỗ”, “1 cung đường, 2 điểm đến”. Tuy nhiên, áp lực chấp hành quy định đi kèm nguy cơ lây nhiễm cao khiến công nhân không mấy mặn mà.
“Nhiều công nhân có tâm lý lo lắng bệnh tật, tự nguyện không tham gia sản xuất nữa chứ không phải vì doanh nghiệp không hoạt động”, ông Linh phát biểu.
Đặc biệt, sau khi tiếp xúc, trao đổi với một số lao động di cư về quê, ông Linh nhận thấy nhóm lao động có gia đình xuất hiện xu hướng không muốn trở lại miền Nam làm việc. Thay vào đó, nhóm này chấp nhận tìm công việc mới, vừa để đảm bảo an toàn gia đình thời kỳ dịch bệnh, vừa để tiện chăm sóc, giáo dục con cái.
Bổ sung thêm, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Phó tổng thư ký VITAS phụ trách phía Nam, cho rằng thời gian giãn cách kéo dài đang khiến tâm lý công nhân kiệt quệ, ảnh hưởng mạnh đến nguồn nhân lực sau này.
Đáng chú ý, cái thiếu của ngành dệt may, da giày hiện nay là lực lượng lao động “xanh”, tức công nhân đã được tiêm vaccine ngừa Covid-19. Do đó, bà Mai đánh giá mối liên kết giữa nguồn nhân lực và quá trình tiêm phủ vaccine rất quan trọng.
Gánh nặng chi phí, chính sách không đồng nhất
Đối với phương án sản xuất kết hợp phòng chống dịch, ông Cẩm cho biết giải pháp “3 tại chỗ”, “1 cung đường, 2 điểm đến” chỉ mang tính chất tình thế, không thể kéo dài do chi phí cao tạo ra nhiều áp lực cho doanh nghiệp.
Mặt khác, sự thiếu thống nhất phương án phòng chống dịch tại địa phương khiến nơi đóng, nơi mở, nơi chặn, là nguyên nhân cho tình trạng ách tắc khi vận chuyển nguyên vật liệu hay hàng hóa.
Ngay cả khi chính phủ có chủ trương thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát dịch bệnh thay cho “Zero Covid”, doanh nghiệp ngành dệt may, da giày vẫn đứng trước bài toán bước vào giai đoạn phục hồi sản xuất ra sao khi chuỗi cung ứng có nguy cơ đứt gãy và khan hiếm lao động.
Sự thiếu đồng nhất chính sách phòng chống dịch bệnh giữa các địa phương đang gây khó cho doanh nghiệp dệt may, da giày. Ảnh: Việt Linh. |
Đồng quan điểm, bà Phan Thị Thanh Xuân, Tổng thư ký Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso) cho rằng vẫn còn nhiều điều kiện phức tạp để mở cửa sản xuất trong tình hình mới.
Đặc biệt, trong khi lực lượng lao động ngành rải rác rộng khắp các tỉnh, vấn đề lưu thông giữa các địa phương đang trở thành rào cản vì mỗi địa phương đưa ra điều kiện khác nhau. Do đó, tình trạng chuỗi cung ứng, nguồn lao động bị ảnh hưởng đang khiến doanh nghiệp kiệt quệ về ngân sách, dòng tiền cạn đáy.
“Thực tế là có doanh nghiệp chấp nhận mở cửa sản xuất rồi chịu phạt sau, nếu tiếp tục đóng cửa thì họ sẽ phá sản”, đại diện Lefaso nhấn mạnh.
Trước những khó khăn trên, đại diện các hiệp hội kiến nghị doanh nghiệp cần xây dựng phương án, quỹ phòng ngừa rủi ro, luôn giữ tư thế chủ động cho mọi tình huống. Bởi lẽ, các doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng phá sản nhanh chóng nếu không có sự chuẩn bị trước.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần đa dạng hóa chuỗi cung ứng, tránh để xảy ra tình trạng dừng lại ở một mắt xích nào đó. Lãnh đạo VITAS nhận định ngành sẽ gặp nhiều rủi ro nếu chỉ phụ thuộc vào một nguồn cung nguyên phụ liệu cũng như nhu cầu tiêu thụ vào một số thị trường nhất định. Do đó, việc chủ động nguồn cung, tránh phụ thuộc và tận dụng lợi ích từ các hiệp định là cần thiết.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần nâng cao sự hợp tác giữa nhà máy và khách hàng, học cách cùng tồn tại, phát triển, chia sẻ trong giai đoạn khó khăn.
Về mặt lực lượng lao động, các doanh nghiệp nói riêng và ngành nói chung cần có giải pháp giữ chân, gắn bó với công nhân, nhất là khi số lượng lao động đang ngày một khan hiếm.