Vào những ngày thật rét, ở những khu tập thể chung quanh Hà Nội người ta thường vẫn bắt gặp những đám trẻ ngồi lẩn mẩn bẻ từng mẩu củi khô cho vào những cái ống bơ rồi gầy lửa và cầm sợi dây đã buộc hai đầu vào miệng ống bơ, quay lên nhiều vòng cho cháy thành ngọn lửa để sưởi.
Ở nông thôn cảnh trẻ lúi húi bên đám lửa càng hay gặp hơn: Bên bờ tre, ngoài cánh đồng, chỗ nào có trẻ là chỗ ấy thường thấy lửng lơ vài đám khói lên. Mỗi lần được chứng kiến những đám trẻ vừa sưởi vừa nghịch đó và hiểu rằng khói lửa mang lại nhiều niềm vui cho những cô bé cậu bé quây quần chung quanh, tôi lại nhớ cái đoạn hai nhân vật chính trong Dấu chân người lính là Lữ và Khuê lần đầu gặp nhau.
- Cậu không thích khói à? - Lữ cười hồn nhiên và hai cánh mũi phập phồng thở hít một cách khoan khoái - Mình ấy à, mình lại rất thích khói, có thể nói mình từng mê nó nữa kia. Hồi còn bé mình ở nhà mẹ mình cũng thường mắng mình là thằng ngốc. Mình ra bờ tre, hễ nhà ai hun đống dấm, hun chuột đồng, hay là bất cứ người ta đốt cái gì, mình cũng liền sà ngay vào hít lấy hít để cái mùi cay cay nồng nồng của khói. Mình cứ đứng như thế cho đến lúc hai con mắt đỏ lên và nước mắt chảy giàn giụa chung quanh mi, không còn nhìn thấy gì nữa.
Khuê hỏi một cách thích thú:
- Khói có gì đáng mê vậy, cậu điên hả?
- Cậu không để ý rằng khói lửa là một mặt rất quan trọng trong đời sống của xã hội loài người? Trong hòa bình hay là trong chiến tranh đều có những đám khói riêng của nó! Cậu từng đi học, cậu không nhớ có biết bao nhà văn nhà thơ đã tả nó, và chúng mình đã phải chong đèn, bò ra phản mà học những câu thuộc lòng như Nửa năm hương lửa đang nồng hoặc Khói Cam Toàn mờ mịt thức mây. Đấy, những câu người ta viết hay nhất đều có khói...
Một chi tiết vui vui, thể hiện rõ lối lý sự của một cậu học trò có tư chất nghệ sĩ, nghe ngộ nghĩnh lạ tai, thậm chí có một chút ngụy biện, song rất gợi nhớ. Đọc xong người ta chỉ nghĩ: Phải những nhà văn rất có năng khiếu nghề nghiệp mới đưa ra được một chi tiết như vậy.
Năng khiếu và thói quen
Một trường hợp khác: Trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu kể một nhân vật phụ nữ trẻ, chị Quỳ bỗng dưng thấy chán người yêu, một người con trai “dũng cảm, đứng đắn, có tài năng, đẹp trai” chỉ bởi một lần nào đó phát hiện ra anh ấy có mồ hôi tay “mỗi lần tôi phải cầm lấy bàn tay anh ấy là lại thấy trên bàn tay mình một cảm giác dấp dính và lạnh”. Và thế rồi hai người bỏ nhau thật.
Một lý do vớ vẩn - nhiều người chắc không hiểu nổi. Nhưng không ít bạn đọc phụ nữ đọc truyện này nói rằng những cảm giác thoáng qua như vậy, tưởng chỉ các bà các chị biết riêng với nhau, chứ đâu ngờ có lúc lại xuất hiện trên trang viết của một nhà văn đàn ông.
Khi khen văn Hemingway, Garcia Marquez có lưu ý một vài chi tiết được sử dụng trong Hạnh phúc ngắn ngủi của Mark Comber rất hay và ông gọi đó là “những điều ngu ngơ thần tình mà chỉ những nhà văn sáng suốt mới viết lên được”. Tôi không dám nói rằng các chi tiết trong văn Nguyễn Minh Châu hôm nay đã đạt đến mức thần tình, nhưng đúng là trong Cửa sông và Dấu chân người lính, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê có không biết bao nhiêu chi tiết lặt vặt như vậy.
Ngu ngơ, vâng; không đâu vào đâu, đúng thế, nhưng nếu thiếu đi thì lại mất hết cả cái gọi là duyên riêng của văn chương. Ngược lại, khả năng cảm nhận và nhu cầu nói ra bằng được những điều ngu ngơ này chính là khả năng biết nắm bắt cuộc sống với tất cả vẻ xù xì của nó, sự đa dạng của nó, và nhất là cái lung linh kỳ ảo của nó, từ đó hình thành cái gọi là cảm quan văn học như người ta vẫn nói.
Suy cho cùng, một lối cảm nhận đời sống như thế đã có ở mọi người bình thường, nhưng chỉ ở các nghệ sĩ nó mới được khai thác đầy đủ, để rồi kết hợp với năng khiếu vận dụng ngôn ngữ mà làm nên những tài năng viết văn, một loại tài năng hiếm hoi mà đôi khi những người thông minh hơn, học thức hơn muốn có cũng không có nổi.
Ai đã gặp gỡ chuyện trò với Nguyễn Minh Châu đều nhớ những nhận xét ngu ngơ này thường được ông đưa ra ngẫu nhiên, bất chợt thế nào. Cộng với lối nói, lối trình bày mọi chuyện một cách hình ảnh, nó làm cho những câu chuyện hàng ngày, ở Nguyễn Minh Châu khá hấp dẫn.
Kể về một người bạn có thói quen ba phải, đúng hơn là nhút nhát, cầu an, tính toán đủ điều mới có ý kiến, Nguyễn Minh Châu bảo:
- Nếu phải viết về thằng này, mình sẽ tả nó đứng trong căn phòng lát toàn loại đá hoa nhỏ bằng độ bàn tay, cả sàn, cả tường, cả trần đều bằng đá hoa, và nó cứ đứng giữa phòng mà tính, đi một bước lại tính một bước - Xem nào, mình đang ở vào hàng thứ mấy rồi? Bước này sẽ rơi vào hàng thứ mấy?
Lại có lần nhân bàn về nhu cầu cần thiết mà cũng là tính cách tất yếu của sáng tác, Nguyễn Minh Châu phác ra một hình ảnh tượng trưng.
- Mỗi lúc nhớ đến đời sống của bộ đội ta trong những năm chiến tranh, tôi lại sực nghĩ đến ở đâu đó trên một chặng đường miền Tây Trường Sơn. Sau một trận bom, chúng tôi đi qua một cánh rừng toàn cây cà-bông - một loại cây có dầu, cháy rừng rực giữa trưa nắng và trong nắng, lửa và khói cứ làm bay cuộn lên những tờ giấy trắng.
Hình như bom địch vừa đánh trúng một kho giấy giữa rừng. Chúng tôi đi qua khu rừng cháy, mãi đến sẩm chiều ngày hôm sau vẫn thấy những tờ giấy như đang bay đuổi theo, có những tờ đã cháy mất nửa. Những tờ giấy phơi cái mặt trắng giữa trời xanh hoặc đang nằm lẫn trên cỏ, trên nền rừng. Tất cả các tờ giấy ấy chỉ nằm chờ chúng tôi, những nhà văn viết về chiến tranh, đến nhặt lấy.
Trước khi cho nó hiện hình trong một thiên tiểu luận (bài Nhớ những cánh rừng đầy giấy bay), những ý tưởng này đã được Nguyễn Minh Châu “nháp” trong nhiều lần trò chuyện với anh em cơ quan. Chẳng trách mà mỗi lần nhắc đến Nguyễn Minh Châu, nhà thơ Vũ Cao chỉ chốt lại ở một nhận xét mà nhiều người cùng chia sẻ:
- Thằng cha ấy có năng khiếu lắm!
Những ngày thường của nghề nghiệp
Cuộc đời viết văn của mỗi người không chỉ bao gồm những ngày vui vẻ, những phút run rẩy trước trang báo còn thơm mùi mực, hoặc cuốn sách giấy trắng nõn nà, mà, giống như phần chìm của những tảng băng trôi, ẩn dưới những ngày vinh quang kia, còn cả cuộc đời lầm lũi làm việc, suy nghĩ, tranh cãi biện luận bàn nát việc này việc khác cốt tìm ra một hướng đi đúng đắn! Nhất là trong những ngày đầu, khi người ta mới bắt tay làm quen với nghề, có bao nhiêu chuyện phải đắn đo, bàn bạc.
Trong những phút tưởng như lúng túng không cách gỡ nổi ấy, hình như tự ta không đủ mà rất cần có thêm những người khác, để ta dò hỏi, họ giống như tấm gương, ta soi vào đấy, mà tự điều chỉnh.
May mắn cho tôi, trong giai đoạn học nghề ấy, tôi được công tác ở một trung tâm văn học rất mạnh là Văn nghệ Quân đội, ở đó, tôi tìm được hai người thầy mà cũng là hai người bạn vong niên là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.
Nguyễn Khải với tôi giống như một thứ cha đạo. Ông đến để chia sẻ với tôi ít điều đang nghĩ hoặc một ít nhận xét về người nọ người kia, nhất là để kháo với tôi ít chuyện về Hội Nhà văn, là khu vực tôi biết ít, mà ông thì lại đang là một ủy viên thường vụ, ông biết nhiều lắm. Nhưng nói cũng như viết ở Nguyễn Khải bao giờ cũng là một cách để thuyết phục người đọc, và thường chỉ sau khi ông xong việc ra về, đối tượng ông vừa thuyết phục mới có dịp nhẩn nha ôn lại để hiểu điều ông vừa nói.
Còn Nguyễn Minh Châu thì khác. Ông lầm rầm ngồi nói những chuyện tưởng như vu vơ mà ai làm nghề cũng phải chạm tới. Có vẻ nó là chuyện hình như ông đang phải nghĩ mà chưa tìm ra, nhưng chính vì thế, chuyện lại có sự hấp dẫn riêng. Và giải thích chuyện đó ra sao thì tùy ở cái tạng người nghe.
Về cái làng nơi ông đã sinh ra và lớn lên, một vùng quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh: Bao giờ rỗi, tôi sẽ viết kỹ về làng tôi, một cái làng nó còn thiên nhiên thiên bẩm lắm, dân chỉ biết đánh cá thôi về lại lên làng trên đổi bạc lấy rượu. Có anh rượu quá, chủ nó lột hết, chỉ để cho một cái quần mà về. Nghĩ cho cùng, một cái làng như làng tôi, lại nứt ra một thằng viết như tôi, kể cũng lạ.
Về cách đi thực tế và lấy tài liệu: Có những người như ông A, ông B. khi đi thực tế, ghi thật nhiều thật kỹ... Tôi thì khác. Tôi ghi một phần thôi. Vừa ghi tôi vừa nghĩ. Chẳng hạn, gặp một người lính ở chiến trường ra, cái điều mình phải tập trung soi rọi là tìm xem giữa người lính ấy với bao nhiêu bạn đọc đang ở chiến trường và chưa ở chiến trường, có cái gì chung, thì phải làm bật lên bằng được. Rồi lại phải làm sao ghi lấy cả những kinh nghiệm cũ của mình nữa, những kinh nghiệm mình có từ lâu rồi nhưng không nhớ, giờ nhân gặp người lính kia, nó mới choàng dậy.
Trong cơ quan tôi bấy giờ có anh X. rất nhạy cảm, bắt được cái gì đó là ngồi viết rất nhanh, máy chữ mổ như mưa rào, chỉ phải cái không thể ngồi lâu, cứ ít ngày lại nhấp nhổm chạy tạt sang những chuyện khác. Sau khi nhấn mạnh rằng ai có cách sống cách viết của người đó, Nguyễn Minh Châu tự nhận mình nghiêng về một cách làm việc từ tốn hơn: “Quá trình viết truyện dài là quá trình nhà văn tự giam mình vào một cái nhà ngục, rồi dỡ ngói dỡ gạch mà ra dần dần”.
Lại có anh Y. trên trang văn rất hay chấm than. Khi nghe tôi nêu nhận xét đó, Nguyễn Minh Châu bảo: “Tôi thì tôi rất sợ những dấu chấm than. Trong văn chương chỉ nên có dấu phảy và dấu chấm thôi. Còn những dấu khác đều có thể dùng lời mà thay được”.
Những chuyện này có vẻ như lặt vặt quá, không nên để ý làm gì?
Nhưng theo Nguyễn Minh Châu, tất cả đều thuộc về khu vực nghề nghiệp mà một người viết văn phải quan tâm và có cách xử sự nhất quán.
Từ những gian truân mà bản thân trải qua trong quá trình viết một cuốn tiểu thuyết, có lần Nguyễn Minh Châu rút ra một bài học chung về nghề văn:
- Tôi viết lại gần xong rồi. Cũng có những chương mình thích lắm. Cái chính để tin vào những trang viết có được không, là ở chỗ có tìm thấy mình trong đó hay không. Với tôi, lần này, cái sự tìm ấy đã thấy, tức là con người mình cứ hiện lên sau các trang sách không sao giấu được. Tôi cho là nếu đừng chấp nhặt quá mà cho phép bốc đồng một chút thì người viết văn nào cũng có thể để vào đầu cuốn sách của mình mấy chữ "Thân tặng tôi", đề một cách nghiêm chỉnh, chứ không đùa bỡn tí nào cả.
Đại khái là thế - trong cái vẻ cụ thể rất tự nhiên, mọi câu chuyện của ông đều tìm cách đi tới khái quát cả quá trình tự nhận thức của con người. Có những nghệ sĩ chỉ làm mà không tự tìm hiểu xem mình đã làm ra sao, Nguyễn Minh Châu ngược lại, là loại người vừa bước đi vừa cố tìm cách để hiểu rằng mình đang bước như thế nào và đấy chính là lý do khiến tôi mê mẩn.
Những người có dịp sống ở Hà Nội, trong những năm từ 1975 về trước, hẳn nhớ, bấy giờ đây là một thành phố rất lặng lẽ. Ngoài một vài chiếc Von-ga đen và một ít com-măng-ca, ôtô hồi ấy gần như không có. Và những Honda, Suzuki... cũng không hề có nốt, Hà Nội bấy giờ là thành phố của xe đạp! Mà cũng không ai phóng xe đạp vội vã, ngang ngược như sau này. Tất cả từ tốn chậm rãi, đúng mực và cũng là an phận nữa.
Riêng với khu vực chung quanh khu thành cổ là doanh trại dành riêng cho bộ đội, thì đường phố nhiều lúc càng thanh vắng lạ.
Những buổi tối, nhất là quãng từ mười, mười một giờ trở đi, ngồi trên căn gác nhà số 4 Lý Nam Đế, nhìn sang những hàng sấu u u tối tối bên đường, có lúc anh em Văn nghệ Quân đội chúng tôi cảm thấy mình như đang lạc đến một xứ sở xa xôi nào, và ở đó, sự suy ngẫm về cuộc đời của người ta được trở nên hoàn toàn mà không bợn một chút vướng mắc nào cả.
Thời gian ấy, tôi mới chưa đầy 30 tuổi, chưa có gia đình riêng, nên đi đâu thì cũng về ngủ ở cơ quan. Còn Nguyễn Minh Châu lại gặp những trục trặc về nhà cửa (vợ con theo cơ quan đi sơ tán) nên cũng ăn cơm tập thể như tôi. Từ quãng độ 5 giờ, vác bát sang nhà ăn tập thể báo Quân đội ăn cơm chiều, cho đến cả buổi tối, trước khi ngồi vào bàn viết, bao nhiêu là thời gian rỗi, có chán nhau đến mấy thì chúng tôi cũng cứ phải tán gẫu với nhau một lúc!
Thường thì ở nhà số 4 Lý Nam Đế này, không khí chuyện trò đã âm ỉ suốt ngày.
Song không phải ai cũng thích hợp với đám đông, thậm chí, cũng một con người mình thôi, nhưng có lúc ngồi trong đám đông thấy hào hứng mà cũng có lúc cứ thấy bật ra lạc lõng. Có những câu chuyện mà chỉ khi ngồi đối mặt hai ba người, nói một cách thật từ tốn, thật chậm rãi với nhau, người ta mới thấm thía hết ý nghĩa sâu xa của nó. Trò chuyện bấy giờ, trong hoàn cảnh gặp người tri kỷ, thật chả khác chi độc thoại.
Trong những buổi tối yên tĩnh đó, tôi đã hỏi Nguyễn Minh Châu đủ chuyện lẩn mẩn.
- Sao có lúc anh như muốn tránh mọi người?
- Đã làm nghề này, mà lắm lúc cứ cảm thấy không gì ngại bằng phải sống cùng nhà với những thằng viết khác. Ngồi một mình lại nghĩ được nhiều chuyện.
- Hồi ở đơn vị, anh nhìn những cây bút trên này thế nào?
- Lúc ấy chưa có ý niệm gì cả, chỉ thấy cái gì anh em đã làm thì mình cũng có thể làm được.
- Anh thường nghĩ về Nguyễn Khải ra sao?
- Trong cơ quan có một thằng như thế rất có lợi. Nó kích thích sự suy nghĩ của chính mình.
- Trong các nhà văn trong nước viết từ trước 1945, anh thích những ai? Nam Cao, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng chứ?
- Người đáng nhớ nhất ngoài Nguyễn Tuân, phải kể Khái Hưng. Những cái ông ấy viết thật là tiểu thuyết đấy. Tiêu Sơn tráng sĩ rất giỏi, nói tới văn học Việt Nam không thể không nói tới quyển ấy, không bỏ được Khái Hưng khỏi lịch sử đâu. Chính Nhất Linh cũng viết không bằng.
Hết chuyện trong nước, đến chuyện văn chương nước ngoài. Chân trời của chúng tôi lúc ấy phải nói là chật hẹp không rộng rãi như sau này, thế nhưng nó cũng đủ khối thứ để bàn mãi không chán.
- Trong các nhà văn thế gới, anh cảm thấy gần với ai?
- Cũng chả có ai cả. Paustovski thích mà Lev Tolstoy cũng thích. Nhưng lạ nhất có lẽ là Cholokhov với cái chất hình tượng trong câu văn. Đọc những người khác, có lúc còn nghĩ là mình sẽ viết được. Những trang tương tự Cholokhov thì chịu đấy.
- Có lẽ anh không thích Ehrenburg?
- Thích chứ, nhưng mà chả bao giờ mình sẽ viết như thế. Ngắc ngứ mãi mới nhá hết Cơn bão táp để rồi đọc xong thì thấy phục - viết giỏi thật. Rút cục cả quyển sách hơn nghìn trang ấy, điểm còn lại chính là nhân vật ma quái mang tên Mado.
... Gorki có lẽ là nhà văn to mồm nhất mà mình phải chịu.
Và đây, một nhận xét khái quát về văn học nước ngoài, đúng chất một cây bút tự tin như Nguyễn Minh Châu:
- Đọc những trang sách hay, lắm lúc mình cứ buồn cười: Đâu như một lần mình đã nghĩ vậy, chỉ có điều, mình không kịp viết ra. Còn đằng kia, thì người ta đã cho nó hiện hình trên mặt giấy. Thành thử, đọc văn nước ngoài đôi khi cứ thấy tưng tức, như là tiếng nước mình bị người ta ăn cắp vậy.
Trong những cuộc đối thoại ngẫu nhiên và thường xuyên lan man như thế, Nguyễn Minh Châu giảng giải nghề văn cho tôi. Sau này tôi mới hiểu rằng những chiêm nghiệm đó lại là những điều cơ bản của nghề nghiệp, nhiều nhà văn cả đời sống với nghề cũng chỉ nói tương tự.