Lửa để đốt lò bát quái, theo Tây du ký, là “thứ lửa văn lửa vũ”. Lửa văn (văn hỏa) và lửa vũ (vũ hỏa) là chi?
Lửa văn là cách thở nhè nhẹ, dùng khi ôn dưỡng. Lửa vũ (võ) cũng gọi dương hỏa, là cách thở mạnh mẽ, liên miên không ngừng để dẫn khí đi khắp nơi, áp dụng vào lúc cần nấu luyện nội dược, thí dụ như nấu diên (chì) ở Khảm (nước, thận) cho bốc lên.
Nếu hiểu lửa ở đây là lửa trong nội thân, để luyện thì hành giả có lúc vận công nhu nhuyễn, giống đốt lửa riu riu, đó là dùng lửa văn; hoặc có lúc vận công tích cực hơn, giống đốt lửa cho ngọn hừng lên, đó là dùng lửa vũ (võ). Giống bà nội trợ giỏi khéo nấu cơm, hành giả cũng phải tùy lúc mà nổi lửa cho đúng cách.
Đới Nguyên Trường viết: “Hỏa hậu như nấu cơm, lúc mới đốt thì nước nguội, gạo sống, vậy ắt phải dùng lửa vũ mãnh liệt cho cơm mau chín. Nếu lửa khi chậm khi mau không đều đặn, khi đốt khi ngưng thì cơm ấy sống sượng không đều, vị lại không ngon. Nếu đã dùng lửa lớn (vũ) nấu qua thì hãy dùng lửa văn nấu chậm. Khi cơm chín tức thì tắt lửa. Nếu như vẫn dùng lửa lớn như cũ ắt phải lo sợ rằng thừa hơi nóng, bốc thẳng lên nắp nồi và cháy khét sinh vị đắng.
Luyện đan thì vận dụng lửa văn lửa vũ cũng y như vậy. Như khi luyện tinh một trăm ngày tiểu chu thiên thì nên dùng lửa vũ; khi luyện khí mười tháng đại chu thiên thì nên dùng lửa văn. Nhưng nấu cơm là chất liệu hữu hình cho nên thời gian ít và dễ dàng, còn tu luyện kim đơn là thứ vô hình vô chất, nếu không phù hợp thì khó thành công. Cho nên phải cầu minh sư dạy bảo, không để một chút xíu sai biệt nào cả. Kinh dạy luyện đơn không bao giờ nói sai vậy”.
Tốn là gió
Bị nấu liên tục bốn mươi chín ngày trong lò bát quái, nhờ núp vào cung Tốn nên Tề Thiên an toàn tánh mạng. Tốn là gió. Điều này ám chỉ hành giả khởi công phu phải dựa vào hơi thở. Điều thân (sửa tư thế thích hợp khi ngồi thiền để thoải mái và ngồi được lâu), điều tức (hô hấp để hơi thở một vô một ra cho đúng cách), điều tâm (giữ cho tâm an định, không bị phóng tán như ngựa khỉ lăng xăng), đấy chính là ba công đoạn cơ bản của thiền gia hay hành giả.
Đạo Lão và Cao Đài cho rằng Tam Bảo gồm có tinh, khí, thần. Khí theo nghĩa hẹp có thể hiểu tạm là hơi thở. Ở sinh mạng, khí là sự sống; hơi thở dứt đi, mạng sống đoạn lìa. Ở tu thiền (tịnh luyện, công phu), người ngồi thiền (hành giả) phải để tâm, ý vào hơi thở luân lưu nhằm cột lại cái tâm viên ý mã, đó gọi là phép lấy thần dẫn khí để trừ tạp niệm, giữ cho tâm thanh tịnh.
Vì Khí với người tu quan trọng như thế, nên cũng đừng lấy làm lạ khi bước vô bửu điện của một thánh thất, thánh tịnh Cao Đài bất kỳ, đối diện với Thiên Nhãn là bàn thờ Hộ Pháp, thấy nơi ấy chỉ tượng trưng bằng một chữ Khí - chữ Nho viết thảo.
Tóm gọn lại, câu chuyện nấu Tề Thiên trong lò bát quái là ẩn ý gì?
1. Tề Thiên là cái lý trí phàm phu phân biện (nhị nguyên). Lão Quân đòi giết Tề Thiên trong lò bát quái tức là dùng công phu thiền pháp để diệt cái tâm điên đảo (phàm tâm tử, đạo tâm sanh); lấy hơi thở (điều tức) để kềm lại, cột lại cái tâm viên ý mã ưa lăng xăng xạo xự.
2. Tề Thiên nhờ núp ở cung Tốn bốn mươi chín ngày nên không chết, vì ở cung Tốn “có gió mà không có lửa”. Bốn mươi chín ngày chưa phải là trọn vẹn quy trình hành pháp của thiền gia (Đường Tăng còn phải lặn lội cho tới một trăm lẻ tám nghìn dặm). “Có gió” tức là mới ở khởi đầu, dùng hơi thở (điều tức) để kềm tâm định ý… nhưng tâm ý vẫn còn có thể bay nhảy nếu quên chú ý vào một hơi thở vô, một hơi thở ra. “Không có lửa” tức là chưa đến giai đoạn cực kỳ quan trọng hiểm nghèo: luyện hỏa hậu.
3. Lò bát quái nấu kim đơn của Lão Quân chính là lò lửa luyện nên vàng mười; thân phàm phu huyết nhục qua trui luyện thành công sẽ trở nên kim thân bất hoại. Mỗi con người đều sẵn có trong cơ thể một lò bát quái. Đường Tăng là người đã chụm lửa đốt lò bát quái, mang lò ấy để đi ngược dòng đời thế tục, tìm về cõi Phật, thành Phật thành Tiên.
Vậy thì tất cả những gì linh thiêng, mầu nhiệm đều không ở đâu xa. Máy Tạo Hóa huyền vi sẵn tàng ẩn trong chính mảnh thân nhỏ bé của mỗi con người. Quả thực, truyện Tây du được kể bằng lối nói úp úp mở mở, nhưng lắng lòng thật kỹ thì nghe như đâu đó có Ngô Thừa Ân cất lên lời tha thiết rằng: Con người ơi, anh chính là một huyền nhiệm!