Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Khi nào Warren Buffett thích mua cổ phiếu?

Mặc dù chúng tôi đã mua một số cổ phiếu ở mức giá hiện hành trước khi giá giảm, nhưng chúng tôi hoan nghênh sự giảm giá bởi nó cho phép chúng tôi có thể mua thêm nhiều cổ phiếu hơn ở mức giá hoảng loạn mới.

Wells Fargo là một ngân hàng lớn với tổng tài sản ở mức 56 tỷ đô-la và có lợi nhuận đạt hơn 20% trên vốn chủ sở hữu và 1,25% trên tài sản. Việc mua lại 1/10 ngân hàng này của chúng tôi tương đương với khoản mua 100% ngân hàng trị giá 5 tỷ với đặc điểm tài chính y hệt. Nhưng để có thể thực hiện việc mua lại một ngân hàng trị giá 5 tỷ như vậy, chúng tôi sẽ phải trả gấp đôi khoản 290 triệu mà chúng tôi trả để mua 1/10 Wells Fargo.

Co phieu anh 1

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Techopedia.

Hơn nữa, ngân hàng 5 tỷ đô-la này, đòi một mức giá cao, có thể mang đến chúng tôi một vấn đề khác: Chúng tôi không thể tìm thấy một Carl Reichardt để điều hành nó. Trong những năm gần đây, các giám đốc điều hành của Wells Fargo đã được săn đón tuyển dụng nhiều hơn các quản lý của bất kỳ một ngân hàng nào khác; tuy nhiên không ai có thể thuê được người đứng đầu.

Tất nhiên, quyền sở hữu một ngân hàng hay bất kỳ một doanh nghiệp nào luôn không thể tránh khỏi rủi ro. Các ngân hàng California đối mặt với một rủi ro đặc biệt của một trận động đất lớn, rủi ro có thể trút đủ sự tàn phá lên khách hàng đến vay, rồi theo đó phá hủy các ngân hàng cho họ vay. Rủi ro thứ hai là về hệ thống, khả năng thu hẹp quy mô kinh doanh hay sự hoảng loạn tài chính nghiêm trọng tới mức gây nguy hiểm cho hầu như mọi tổ chức có tỷ số đòn bẩy cao, dù tổ chức đó được điều hành thông minh thế nào.

Cuối cùng, nỗi sợ hãi lớn của thị trường trong thời điểm này là giá trị bất động sản West Coast sẽ sụt giảm vì xây dựng quá nhiều và mang đến tổn thất rất lớn cho ngân hàng đã tài trợ cho việc mở rộng xây dựng này. Bởi nó là một ngân hàng cho vay bất động sản hàng đầu, nên Wells Fargo được cho là rất dễ bị tổn hại.

Không một tình huống nào trong số các tình huống có thể xảy ra này có thể được loại trừ. Tuy nhiên, xác suất của hai trường hợp đầu tiên là thấp và kể cả nếu có sự sụt giảm đáng kể trong giá trị bất động sản cũng không gây ra vấn đề lớn cho các tổ chức có ban quản lý tốt.

Hãy xem xét một vài tính toán: Wells Fargo hiện kiếm được một tỷ đô-la trước thuế hằng năm sau khi đã trả chi phí hơn 300 triệu đô-la cho những tổn thất cho vay. Nếu 10% trong số 48 tỷ đô-la các khoản cho vay của ngân hàng - không chỉ tính riêng các khoản vay bất động sản - đã bị ảnh hưởng vào năm 1991, và những thiệt hại này (bao gồm cả lãi suất dự tính trước) đạt trung bình là 30% trên gốc, công ty sẽ xấp xỉ hòa vốn.

Một năm như thế - một năm mà chúng tôi đánh giá có khả năng xảy ra ở mức độ thấp, chứ không phải là không có khả năng xảy ra - không làm chúng tôi phiền muộn. Thực tế, ở Berkshire, chúng tôi thích mua các doanh nghiệp hoặc đầu tư vào các dự án vốn có thể không tạo ra lợi nhuận trong năm đầu nhưng sau đó có thể kỳ vọng tạo ra 20% tỷ lệ tăng trưởng trên vốn chủ sở hữu.

Tuy nhiên, những lo ngại về một thảm họa bất động sản ở California tương tự như kinh nghiệm tại New England là nguyên nhân khiến giá cổ phiếu của Wells Fargo giảm gần 50% trong vòng một vài tháng trong năm 1990. Mặc dù chúng tôi đã mua một số cổ phiếu ở mức giá hiện hành trước khi giá giảm, chúng tôi hoan nghênh sự giảm giá bởi nó cho phép chúng tôi có thể mua thêm nhiều cổ phiếu hơn ở mức giá hoảng loạn mới.

Các nhà đầu tư, những người kỳ vọng là người mua liên tục các khoản đầu tư trong suốt cuộc đời của họ, nên có một thái độ tương tự như trên đối với những biến động thị trường; thay vào đó nhiều nhà đầu tư trở nên thờ ơ một cách vô lý khi giá cổ phiếu tăng và buồn rầu khi nó giảm. Họ không thể phản ứng trái ngược như vậy với giá thực phẩm: biết rằng sẽ phải mua thực phẩm cả đời, họ hoan nghênh việc giảm giá và phàn nàn về việc tăng giá. (Những người bán thực phẩm mới là những người không thích giá giảm.)

Tương tự, ở Buffalo News chúng tôi sẽ cổ vũ việc hạ giá thấp hơn đối với giấy in báo, mặc dù điều đó đồng nghĩa với việc giá trị của một lượng hàng tồn kho lớn giấy in báo mà chúng tôi luôn luôn duy trì sẽ giảm, bởi vì chúng tôi biết mình luôn phải mua giấy in báo.

Lập luận tương tự đã định hướng suy nghĩ của chúng tôi về các khoản đầu tư của Berkshire. Chúng tôi sẽ mua các doanh nghiệp, hay một phần các doanh nghiệp, thông qua mua cổ phiếu, năm này qua năm khác chừng nào tôi còn sống. Với những ý định này, giá giảm mang đến lợi nhuận cho chúng tôi, giá tăng làm tổn hại đến chúng tôi.

Nguyên nhân phổ biến nhất của giá thấp là sự bi quan - đôi khi là sự bi quan của toàn bộ thị trường, đôi khi là sự bi quan đối với một công ty hay một ngành cụ thể. Chúng tôi muốn làm kinh doanh trong một môi trường như vậy, không phải vì chúng tôi thích sự bi quan mà vì chúng tôi thích mức giá do sự bi quan tạo ra. Sự lạc quan là kẻ thù của những người mua có lý trí.

Tuy nhiên, những điều đó không có nghĩa rằng việc mua một doanh nghiệp hoặc một chứng khoán sẽ là hành động thông minh chỉ đơn giản vì nó không được nhiều người quan tâm; một cách tiếp cận trái ngược ngu ngốc hệt như một chiến lược chạy theo đám đông.

Đầu tư là một công việc đòi hỏi phải tư duy hơn nhiều so với việc chỉ đơn giản là bỏ phiếu. Thật không may, quan sát của Bertrand Russell về cuộc sống nói chung cũng đúng một cách đáng ngạc nhiên trong thế giới tài chính: “Hầu hết mọi người thà chết chứ không chịu suy nghĩ. Nhiều người đã thực sự làm vậy.”

Lawrence A.Cunningham/Alpha Books – NXB Lao Động

Bình luận

SÁCH HAY