Tờ New York Times ngày 23/5 đăng bài viết về những suy niệm của 3 cựu binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam về quá khứ cũng như niềm tin tương lai cho mối quan hệ hai nước. Họ gồm Ngoại trưởng John Kerry; John McCain - Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa bang Arizona kiêm chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện; và Bob Kerrey - cựu thượng nghị sĩ đảng Dân chủ từ bang Nebraska và hiện là chủ tịch ban điều hành của Đại học Fulbright Việt Nam.
Dưới đây là bài viết chung của 3 cựu binh Mỹ đặc biệt:
"Khi Tổng thống Obama thăm Việt Nam, chúng tôi nhận thấy thực tế là phần lớn công dân ở cả Mỹ và Việt Nam không còn giữ nhiều ký ức về cuộc xung đột đã cướp sinh mạng của hơn 58.000 người Mỹ và hơn một triệu người Việt Nam.
Là những người Mỹ tham gia vào cuộc chiến đó, chúng tôi thường được hỏi về những bài học. Rất ít câu trả lời được đưa ra một cách dễ dàng, một phần vì mọi cuộc xung đột đều đặc biệt và bởi chúng tôi nhận thấy, việc cố gắng áp dụng các bài học cũ vào khủng hoảng mới nhiều khi đem tới điều tiêu cực hơn tích cực. Tuy nhiên, một vài bài học lại quá rõ ràng.
Bài học đầu tiên không chỉ riêng chúng tôi được biết, mà đó là nguyên tắc áp dụng cho tất cả những ai khoác quân phục: Chúng ta sẽ không bao giờ được phép tiếp tục nhầm lẫn giữa một cuộc chiến tranh và các chiến binh. Các cựu binh Mỹ xứng đáng được tôn trọng đặc biệt, được ủng hộ và hỗ trợ vào bất cứ khi nào và tại bất cứ đâu.
Bài học thứ hai, các nhà lãnh đạo Mỹ cần phải trung thực trước Quốc hội và người dân Mỹ về các kế hoạch, mục tiêu và chiến lược trước khi đặt mạng sống của binh sĩ Mỹ vào thế nguy hiểm. (Chính quyền Mỹ mô tả nhiệm vụ của binh sĩ Mỹ khi lần đầu tiên được triển khai tới Việt Nam là “cứu trợ lũ lụt”).
Thượng nghị sĩ John Kerry và John McCain tại bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam ở Hà Nội năm 1993. Ảnh: Boston Globe
|
Bài học thứ 3: cần thể hiện sự khiêm tốn khi tiếp nhận kiến thức về văn hóa nước ngoài. Trong cuộc chiến tại Đông Nam Á, hành động của cả đồng minh và đối thủ đều nằm ngoài nhận định của Mỹ.
Bài học thứ 4 và cũng là cuối cùng trong cuộc chiến tại Việt Nam đang hiện hữu trước mắt chúng ta: Với nỗ lực và ý chí mạnh mẽ, những bất đồng tưởng như không thể hàn gắn lại có thể được hòa giải. Trên thực tế, ông Obama là tổng thống Mỹ đương nhiệm thứ 3 thăm Việt Nam. Đây là bằng chứng rõ nhất cho thấy những cựu thù có thể trở thành đối tác mới.
Là những cựu binh và giờ may mắn khi vẫn có thể phục vụ cho chính quyền, chúng tôi tự hào vì đã góp phần nối lại quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam.
Quá trình khôi phục mối quan hệ hai nước từng trải qua nhiều lúc khó khăn. Tuy nhiên, Việt Nam và Mỹ đã đạt được điểm chung vào thời điểm hơn 20 năm sau khi hai nước thông báo bình thường hóa quan hệ, với chương trình nghị sự hướng tới tương lai và trải dài trên nhiều lĩnh vực. Các cuộc thảo luận giữa Tổng thống Obama và giới lãnh đạo Việt Nam tập trung vào nhiều vấn đề, từ hợp tác an ninh tới thương mại hay đầu tư giáo dục.
Chương trình nghị sự được mở rộng đã phản ánh thay đổi trong quan hệ giữa hai nước đang diễn ra theo chiều hướng tích cực.
20 năm trước, chưa đầy 60.000 người Mỹ tới Việt Nam du lịch hàng năm. Ngày nay, con số này đã đạt mức gần nửa triệu người. 20 năm trước, thương mại song phương trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa với Việt Nam chỉ đạt 450 triệu USD. Ngày nay, con số này đã gấp 100 lần. Hai thập kỷ trước, khoảng 1.000 sinh viên Việt Nam sang Mỹ du học nhưng con số này hôm nay đã là 19.000 sinh viên.
Trong tuần này, Đại học Fulbright Việt Nam chính thức hoạt động tại TP HCM. Một người trong số chúng tôi, cựu thượng nghị sĩ Bob Kerrey sẽ giữ vai trò chủ tịch ban điều hành của trường đại học này.
Bob Kerrey, cựu thượng nghị sĩ đảng Dân chủ. Ảnh: USA Today |
Gần nửa thế kỷ trước, khi còn tham chiến tại Việt Nam, chúng tôi không bao giờ nghĩ tới viễn cảnh một ngày nào đó chính phủ Mỹ sẽ hợp tác với chính phủ Việt Nam để giải quyết vấn đề ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long bằng các sáng kiến quản lý hệ sinh thái tại đây và hợp tác với các nỗ lực chống biến đổi khí hậu.
Chúng tôi cũng không thể tưởng tượng rằng hai nước lại trở thành đối tác trong thỏa thuận thương mại lịch sử - Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đây vốn là thỏa thuận sẽ nâng các tiêu chuẩn về lao động và môi trường, đồng thời mở rộng sự phát triển cho Mỹ và các quốc gia ở khu vực vành đai Thái Bình Dương.
Người ta cũng từng khó có thể tưởng tượng được rằng Mỹ và Việt Nam sẽ hợp tác trong các vấn đề an ninh. Mỹ sẽ giúp Việt Nam xây dựng một trung tâm huấn luyện cho quân đội Việt Nam ở ngoại ô thủ đô Hà Nội, nơi các binh sĩ trẻ của Việt Nam sẽ được chuẩn bị trước khi tham gia vào các phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc.
Quân đội Mỹ và Việt Nam thường xuyên tổ chức các cuộc tiếp xúc và các nhà ngoại giao tham vấn về những vấn đề liên quan tới tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông. Chính phủ của chúng tôi không ủng hộ bên nào trong vấn đề Biển Đông, song chúng tôi đặc biệt tin rằng, các bên cần giải quyết tranh chấp theo cách hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời không chấp nhận hành động đơn phương của bất cứ nước nào nhằm tìm kiếm bá quyền.
Trong các chuyến thăm Việt Nam, chúng tôi đều rất ấn tượng trước việc người dân háo hức tận dụng lợi thế công nghệ và cạnh tranh trong thị trường lao động toàn cầu. Chúng tôi tin tưởng rằng chính phủ Việt Nam sẽ đạt được nhiều hơn nữa khi đặt niềm tin vào người dân.
Hướng tới tương lai, trên hết, chúng tôi biết lợi ích chung sẽ thúc đẩy quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam. Mối quan hệ sẽ càng được củng cố bởi những điểm chung tự nhiên giữa hai xã hội. Chúng bao gồm các mối quan hệ trong gia đình, thái độ lạc quan, mong muốn mãnh liệt cho tự do và độc lập, cũng như nhận thức rõ ràng rằng hòa bình luôn là điều tốt đẹp nhất."