Trung Quốc gia tăng sức mạnh hải quân
Hải quân Trung Quốc (PLAN) đang xây dựng lực lượng tấn công - phòng thủ ở những vùng viễn dương trong khu vực. Với khả năng chống tiếp cận và chống xâm nhập (A2/AD), khả năng viễn chinh hạn chế và sức mạnh không quân tương ứng. Trung Quốc gọi chiến lược toàn diện A2/AD là đòn "phản can thiệp", chống lại hoạt động của Mỹ và các đồng minh tại những "vùng biển gần của Trung Quốc".
Một yếu tố quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc là xây dựng đội tàu ngầm mới. Bắc Kinh đang triển khai 45 tàu ngầm thuộc các lớp khác nhau: hai loại tàu ngầm do Trung Quốc tự chế tạo chạy bằng diesel là tàu lớp Song (Type 039) và tàu lớp Yuan (Type 041), 4 tàu ngầm hạt nhân gồm tàu lớp Shang (Type 093), tàu lớp Jin (Type 094) và tàu lớp Tang (Type 096).
Từ năm 2004, giới quan sát cho rằng Trung Quốc đã sử dụng 12 tàu ngầm thông thường Type 041 lớp Yuan. Quân đội nhiều lần cải tiến chúng để bổ sung thiết bị phát hiện tàu ngầm hiện đại hơn, cải tiến hệ thống vũ khí, giảm tiếng ồn và công nghệ động cơ đẩy không dùng không khí.
Trong tương lai, PLAN có thể mua thêm 20 tàu ngầm lớp Yuan dựa trên công nghệ mà họ nhập khẩu từ Nga. Nhiều nguồn tin cho hay Trung Quốc đang tiếp tục đàm phán với Nga để mua thêm ít nhất 4 tàu ngầm lớp Amur và có thể là tàu ngầm lớp Kalina thế hệ thứ 4. Cả hai tàu ngầm đều sử dụng hệ thống AIP hiện đại.
Phản ứng của khu vực
Trước những động thái tăng tốc của hải quân Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng thúc đẩy các hợp đồng mua nhiều loại tàu ngầm mới.
Đầu tháng 7/2014, Hàn Quốc hạ thủy tàu ngầm thứ 5 Type 214 có tên ROKS Yun Bong-gil. Đây là tàu ngầm chạy bằng diesel - điện, sử dụng hệ thống động cơ đẩy không dùng không khí (AIP). Nó còn mang theo Haeseong-3, loại tên lửa siêu thanh có hệ thống định vị nhắm chính xác các mục tiêu mặt đất với phạm vi hoạt động 1.500 km. Sự kiện này là một trong những diễn biến quan trọng trong cuộc “chạy đua vũ trang” ở Đông Á.
Tàu ngầm ROKS Yun Bong-gil của Hàn Quốc. Ảnh: hhi.co.kr |
Trước khi hạ thủy tàu ngầm ROKS Yun Bong-gil, Hàn Quốc đã công bố tàu ngầm lớp Son Won-ill có độ giãn nước 1.800 tấn vào tháng 9/2013. Nó cũng sử dụng AIP và hệ thống quản lý tác chiến hiện đại. Đến nay Hàn Quốc có 14 tàu ngầm đang hoạt động, gồm 9 tàu Type 209 Chang Bogo và 5 tàu lớp Son Won-ill.
Lực lượng tự vệ hàng hải Nhật Bản (MSDF) cũng công bố tàu ngầm mới nhất, Kokuryu, vào tháng 10/2013. Đây là tàu thứ 6 trong kế hoạch xây dựng đội 10 tàu ngầm lớp Soryu của Nhật Bản. Mang theo tên lửa Harpoon nên tàu ngầm lớp Soryu là tàu ngầm hiện đại nhất trong hạm đội tàu ngầm thông thường của Nhật Bản.
Tàu ngầm Kokuryu của Nhật Bản hạ thủy. Ảnh: mod.go.jp |
Tại Đông Nam Á, vì chi phí cao và các điều kiện bảo trì khó khăn nên các nước không xây dựng đội tàu ngầm hùng hậu. Tuy nhiên, một số nước đã mua những tàu ngầm chạy diesel - điện hoạt động ven biển với những khả năng mới.
Indonesia, Malaysia và Singapore muốn mở rộng hoặc nâng cấp đội tàu ngầm. Trong giai đoạn 2007 - 2009, Malaysia nhận hai tàu ngầm lớp Scorpene do Pháp chế tạo, trang bị các tên lửa chống tàu Exocet. Chúng neo ở căn cứ hải quân Kota Kinabalu tại Sabah, đông Malaysia để bảo vệ chủ quyền Malaysia trên Biển Đông.
Trong khi đó, Indonesia thể hiện tham vọng lớn hơn. Họ muốn mở rộng đội tàu ngầm lên 6 chiếc và đặt mục tiêu sở hữu 12 tàu vào năm 2024. Đây là yếu tố then chốt trong kế hoạch Lực lượng cần thiết tối thiểu (MEF) của Indonesia. Jakarta cũng công bố mục tiêu phát triển lực lượng hải quân hoạt động ở các vùng vành đai nước nông. Năm 2012, hải quân Indonesia ký hợp đồng 1,1 tỷ USD để mua 3 tàu ngầm Type-209/1400 hoạt động bằng diesel - điện do Hàn Quốc đóng.
Vào tháng 11/2013, Singapore công bố hợp đồng với tập đoàn đóng tàu ThyssenKrupp để mua hai tàu ngầm hiện đại Type-218SG nhằm tăng cường sức mạnh cho đội tàu hiện tại, gồm các tàu lớp Archer, và thay thế những tàu lớp Challenger vào năm 2020.
Trong thập kỷ qua, hoạt động của tàu ngầm tại Đông Á mở rộng từ chiến tranh chống tàu ngầm đến bảo vệ lực lượng qua các sứ mệnh hộ tống, giám sát tình báo, hỗ trợ các lực lượng đặc biệt. Sự ra đời của tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm để tấn công các mục tiêu tàu trên biển hoặc trên mặt đất, hệ thống cảm biến chống tàu ngầm, động cơ AIP đã nâng cao đáng kể khả năng tàng hình, giúp các tàu ngầm khó bị phát hiện, rút ngắn chu trình nhận diện - tấn công, từ đó cải thiện tính linh hoạt, tính di động, khả năng tiếp cận và độ nguy hiểm của tàu ngầm.