Những con ngõ nhỏ sâu hun hút, chỉ đúng một người đi ở phố cổ Hà Nội. Nguồn: VOV. |
Thời xa xôi mỗi số nhà một chủ thì không nói làm gì. Sau năm 1954, ở các phố cổ này mỗi số nhà chia cho hàng chục hộ gia đình với mấy chục con người. Nhà ở đây hầu hết là nhà ống sâu hun hút.
Mỗi gia đình quây lại một gian; nhà thì được gian to, nhà khác được gian nhỏ, thậm chí có nhà chỉ được một gian nhỏ xíu nhỉnh hơn chiếc chiếu đôi. Khách vào nhà phải đứng yên hoặc ngồi luôn xuống sàn không dám động đậy bởi giơ tay thì chạm sàn gác xép hoặc va đập tay vào tường hay vách ngăn!
Có thể nhiều người, nhất là các bạn trẻ thời nay không tưởng tượng được cái gác xép là thế nào. Sao lại phải làm gác xép. Sự thể nó thế này:
Vì nhà diện tích nhỏ, không đủ chỗ nằm ngủ cho các thành viên trong gia đình, nhất là nhà lại có tới 3-4 thế hệ ở cùng. Nên phải làm thêm gác xép. Gác xép chính là gác lửng trong nhà được làm từ các thanh xà gỗ cắm vào tường, trên các thanh xà đó đặt các tấm ván lấy từ các thùng bao bì hoặc gỗ dán kiếm được từ đâu đó. Từ nền nhà tới đáy gác xép chỉ tầm 1,8 đến 2 m, ai cao quá khổ rất dễ chạm đầu vào đáy các thanh xà.
Cửa lên gác xép là một lỗ chui lọt người. Nhà nào rộng một chút thì còn làm được cái cầu thang gỗ be bé bắc lên dựng đứng. Nhà nào hẹp, không để được cầu thang thì phải làm mấy thanh sắt uốn hình chữ “U” cắm vào tường để làm bậc leo lên.
Gác xép nhiều nhà do trần thấp nên khi đã ở trên đó thì chỉ có ngồi hoặc nằm. Đã rất nhiều lần do quên hoặc buổi sáng ngủ dậy mắt nhắm mắt mở, cứ tưởng mình đang ở dưới nhà, thản nhiên đứng lên thì… ôi thôi! Ôm đầu và sờ lên đầu thấy có “quả ổi” to tướng!
Thật là nỗi khổ không biết chia sẻ cùng ai cho các gia đình nào mấy đôi vợ chồng anh em ruột ở chung. Đôi nằm gác xép, đôi nằm dưới sàn đã là may mắn. Nhiều nhà không được như thế, cái gác xép chật chội bé tí ấy chứa 2 thậm chí 3 đôi vợ chồng trẻ.
Khi màn đêm buông xuống, đến lúc phải nghỉ ngơi thì ranh giới giữa các cặp vợ chồng ấy chỉ là tấm ri-đô vải mỏng manh. Nhiều đôi vợ chồng trẻ đêm “yêu nhau” không dám thở mạnh… Ngày ấy lấy đâu ra “nhà nghỉ” hay khách sạn để các cặp vợ chồng trẻ có chỗ đi “sơ tán” để tạo điều kiện “chiều” nhau…
Có thể nói những năm ấy là “thời của gác xép” bởi “nhà nhà” ai cũng phải làm như thế thì mới có đủ chỗ ngủ cho mọi người trong nhà!
Vì là một căn nhà lớn trước đây chỉ có một chủ, nay chia thành nhiều gian cho các hộ gia đình nên nhiều nhà không có tí ánh sáng mặt trời nào, suốt ngày phải thắp đèn. Thời điện đóm phập phù hồi thập niên 60, 70, 80 thậm chí sang đầu những năm 90, ban ngày bị cắt điện thì nhiều nhà phải thắp ngọn đèn dầu. Ngồi trong nhà ban ngày mà tù mù cứ như đang ngồi trong cái am thờ!
Để vào các gia đình bên trong chỉ có mỗi con hẻm được ngăn ra, chiều rộng tầm 70 phân. Thời chỉ có xe đạp còn có thể dễ dắt ra dắt vào. Nhưng đến thời xe máy thì quả là gian nan: Muốn dắt xe máy vào, ra chỉ có mỗi cách là ngồi lên yên xe rồi dùng chân “bơi” vào!
Đấy là xe máy cỡ nhỏ và cỡ “trung” kiểu xe Honda có “yếm”, còn anh chị nào có xe tay “côn”, ghi-đông xe máy vểnh như sừng trâu thì chỉ có nước đi gửi xe ngoài bãi! Ấy là còn may có chỗ để mà ngăn ra lối đi riêng. Nhiều số nhà do căn nhà hẹp, ngăn lối đi riêng thì hết diện tích, nên các hộ bên trong cứ phải “nghễu nghện” vào ra là phải đi qua nhà ngoài, bất kể nhà bên ngoài lúc ấy mọi người đang ăn cơm, tiếp khách hay đang nằm nghỉ!
Lắm đêm đã khuya, đang ngủ, có người ở nhà trong đi làm hay đi chơi về muộn, quên đem theo chìa khóa, gọi người léo nhéo để ra mở cửa, làm cả nhà bên ngoài thế là mất giấc ngủ! Rất bất tiện.
Chỗ ở là vậy còn chỗ nấu nướng ăn uống cũng không kém phần gian nan! Sống trong điều kiện chật chội ấy thì gầm giường là “tổng kho”: thùng gạo, can dầu hỏa để đun hay thậm chí bó củi dự trữ… cũng nằm dưới đó.
Còn đun, mỗi nhà có cái bếp dầu “chạy” lưu động, tiện chỗ nào đặt đun chỗ đó! Mà ngày ấy quà bánh hay cơm hàng lấy đâu ra. Muốn có cái ăn thì phải ngày đỏ lửa bếp 2-3 lần, không thì nhịn đói! Mỗi khi đun nấu xong, tắt bếp dầu mùi khét nồng nặc “tra tấn” cả xóm! Sống trong khung cảnh như thế, nhà ai ăn gì, uống gì… chẳng giấu nhau được.
Nhớ mãi cảnh nhà nào có người ốm, được “ưu tiên” ra hàng bồi dưỡng bát phở thì thường bọc theo gói cơm nguội để trộn thêm vào bát phở lèo tèo cho “chắc” dạ. Chỗ nấu nướng chật chội, cái đun khó khăn, đến đun ấm nước sôi cũng ngại, nên khi nhà có khách thì chủ nhà đành chịu khó xách cái phích ra chỗ tổ phục vụ ở đầu phố làm mấy hào nước sôi. […]
Chuyện tắm rửa cũng thật gian nan. Nhà tắm của các hộ nơi phố cổ hầu hết là gầm cầu thang ngoài trời của chung cả số nhà. Số nhà nào cầu thang chung vững chãi rộng rãi còn đỡ, số nhà nào cả nhà và cầu thang xuống cấp ọp ẹp thì thật khổ.
Trong những năm chiến tranh Mỹ ném bom Hà Nội cuối thập niên 60 đầu thập niên 70, các gầm cầu thang này kiêm thêm chức năng hầm trú ẩn mỗi khi có còi báo động của thành phố rú lên.
Hết chiến tranh, gầm cầu thang chỉ còn chức năng làm nhà tắm của cả số nhà. Ai tắm thì tự hứng nước từ cái vòi nước chung chảy ri rỉ bên ngoài, xách xô vào. Cửa giả xộc xệch, đèn đóm không có, chuột bọ làm ổ, gián bay vù vù… Cái nhà tắm ấy chủ yếu chỉ “phục vụ” cho đàn bà, con gái, còn đàn ông và trẻ con thì tắm ở ngoài sân. Trời rét hay nóng cũng chỉ có thế!
Tình trạng này kéo dài tới đầu những năm 2000 và đến nay vẫn còn không ít. Phố cổ Hà Nội, đằng sau các cửa hàng mặt phố hào nhoáng là như thế!