Peter Handke vừa được tôn vinh tại giải thưởng Nobel Văn học 2019 vì một sự nghiệp mang tầm ảnh hưởng với ngôn ngữ trong sáng đã dò xét biên giới và đặc tính trải nghiệm nhân sinh.
Có thể nhiều bạn đọc Việt chưa quen tên Peter Handke khi chỉ có một tác phẩm của ông mới được xuất bản: Trong một đêm tối trời tôi ra khỏi ngôi nhà tịch mịch của mình (Ngụy Hữu Tâm dịch). Tuy vậy, với văn chương thế giới, ông là một cây bút lão luyện, có tầm ảnh hưởng, từng được vinh danh tại nhiều giải thưởng danh giá.
Nhà văn Peter Handke. Ảnh: Georg Hochmuth/ Getty Images |
Peter Handke sinh năm 1942 tại ngôi làng Griffen, nằm ở vùng Karnten miền Nam nước Áo. Cha ông là một người lính Đức và mãi đến tuổi trưởng thành Peter mới được gặp cha mình. Sau một thời gian sống cùng mẹ ở Berlin, khi ấy chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, gia đình ông trở về định cư ở Griffen. Từ năm 1961, ông học luật tại Đại học Graz nhưng ngừng học vài năm sau đó, khi cuốn tiểu thuyết đầu tay Die Hornissen xuất bản (1966). Đây là một tác phẩm hư cấu kép, một tiểu thuyết trong tiểu thuyết.
Ông sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau, từ tiểu thuyết, tiểu luận, kịch bản, dịch thuật… Từ những năm 1990, ông sống ở Chaville, phía tây nam Paris.
Tác phẩm của Peter đầy khao khát khám phá và những khám phá ấy trở nên sống động khi được ông chuyển tải bằng văn phong, ngôn ngữ sáng tạo, cách diễn đạt văn chương mới. Ông đã tuyên bố: "Khả năng tiếp nhận là tất cả mọi thứ". Với mục tiêu này, ông để ý kỹ càng đến ngay cả những chi tiết nhỏ nhất trong trải nghiệm hàng ngày với tâm thế ý vị sâu sắc. Do đó, tác phẩm của ông được đặc trưng bởi một tinh thần phiêu lưu mạnh mẽ, nhưng cũng có khuynh hướng hoài niệm, điều này xuất hiện lần đầu tiên vào đầu những năm 1980, trong vở kịch Uber die Dorfer 1981 (Về làng, 2015) và đặc biệt trong tiểu thuyết Die Wiederholung, 1986 (Lặp lại, 1988), nơi nhân vật chính Georg Kobal trở về nguồn gốc Xla-vơ (Slavonic) của Handke bên phía đằng ngoại.
Bìa sách Trong một đêm tối trời tôi ra khỏi ngôi nhà của mình. |
Handke đã nói rằng, "những tác phẩm kinh điển đã cứu tôi". Điều này thể hiện trong những ghi chép của ông, trong cuốn sách gần đây Vor der Baumschattenwand nachts: Zeichen und Anflüge von der Perodesie (Trước bức tường bóng cây vào ban đêm: Các dấu hiệu và cách tiếp cận từ ngoại vi) 2007-2015. Tầm quan trọng của các tác phẩm kinh điển cũng được thể hiện rõ trong các bản dịch của ông từ tiếng Hy Lạp cổ đại, các tác phẩm của Aeschylus, Euripides, Sophocles. Ông cũng đã dịch một loạt các tác phẩm từ tiếng Pháp và tiếng Anh, các sáng tác của Emanuel Bove, René Char, Marguerite Duras, Julien Green, Patrick Modiano, Francis Prid và Shakespeare.
Đồng thời Handke vẫn là một nhà văn vô cùng hiện đại và một trong những khía cạnh thể hiện điều này là sự tương đồng của ông với Franz Kafka. Có cùng một bối cảnh xuất thân, Handke đã phải nổi loạn chống lại truyền thống gia đình của mình. Handke chọn theo đằng ngoại, di sản truyền thống Xla-vơ, một lý do quan trọng cho vọng tưởng chống chủ nghĩa dân tộc về nguồn gốc Balkan của ông. Dù đôi khi ông gây ra tranh cãi, Handke cũng không thể được coi là một nhà văn hành động theo nghĩa của Sartre, và ông không đưa ra cho chúng ta một ý đồ chính trị nào.
Trước khi đoạt giải Nobel Văn học 2019, Peter Handke là chủ nhân của nhiều giải thưởng văn học danh giá như: Georg Buchner (1973), Vilenika International Literary (1987), Brothers Karie Award (2000), America Award (2002), Grober Literaturpreis der Bayerischen Akademie der Schonen Kunste (2008), Franz Kafka (2009), Mulheimer Dramatikerpreis (2012), International Ibsen Award (2014), Nestroy-Theaterpreis (2018)...