Mẹ của Chris Langan xuất thân từ San Francisco và vốn bị gia đình ghẻ lạnh. Bà sinh ra bốn đứa con, mỗi đứa có một ông bố khác nhau. Chris là con cả. Cha mất tích trước khi Chris chào đời và có tin đồn rằng ông đã chết ở Mexico. Người chồng thứ hai của bà bị sát hại. Người chồng thứ ba tự vẫn. Người chồng thứ tư là một anh ký giả thất thế tên Jack Langan.
“Tới tận giờ tôi cũng chưa từng gặp một ai mà hồi thơ ấu gia đình lại nghèo khổ tới nỗi như nhà chúng tôi”, Chris Langan nói. “Chúng tôi không có nổi hai cái tất lành cùng một đôi. Giày nham nhở. Quần áo thủng lỗ chỗ. Chúng tôi chỉ có độc một bộ quần áo. Tôi vẫn nhớ tôi với các em vào nhà tắm để giặt bộ quần áo duy nhất. Lúc ấy bọn tôi trần nồng nỗng bởi chẳng có cái gì khác để mặc”.
Jack Langan sau đó triền miên khướt khơ rượu chè và rồi mất tích. Ông ta vẫn thường khóa chặt tủ chạn để mấy đứa bé không thể lấy trộm thức ăn. Ông ta dùng roi da để trấn áp và sai khiến lũ trẻ. […]
Khi bọn trẻ đang tuổi đi học, cả nhà lại chuyển tới Bozeman, bang Montana. Một cậu em của Chris ở lại gia đình đỡ đầu còn những đứa trẻ khác đến trường giáo dưỡng.
“Tôi không nghĩ là trường học đã có lúc nào đó biết được Christopher có tài năng thiên bẩm”, cậu em Jeff nói. “Chắc như đinh đóng cột là anh ấy không thể hiện ra chút gì. Đấy là ở Bozeman. Nó chẳng giống bây giờ chút nào hết. Khi chúng tôi lớn lên ở đó, nó vẫn chỉ là một thị trấn bé xíu và quê mùa. Ở đó chúng tôi không được đối xử tử tế mấy. Họ coi cả nhà tôi chỉ là một lũ ăn bám”.
Để bảo vệ bản thân mình và các em, Chris bắt đầu tập nâng tạ. Một hôm, lúc ấy Chris 14 tuổi, Jack Langan lại gây gổ và đánh đập bọn nhỏ. Ông ta vẫn thường như thế. Chris hạ gục ông ta ngay lập tức. Jack bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa. Sau khi tốt nghiệp trung học, Chris nhận được hai học bổng toàn phần, của Đại học Reed ở Oregon và Đại học Chicago. Anh đã chọn Reed.
Chris Langan có chỉ số IQ cao. Hiện ông sống trong một nông trại nuôi ngựa ở vùng nông thôn Missouri. Ảnh: Amazon. |
“Đó là một sai lầm lớn”, Chris nhớ lại. “Tôi rơi vào tình trạng sốc văn hóa thực sự. Tôi chỉ là một thằng bé đầu húi cua vốn làm việc chăn nuôi gia súc trong mùa hè ở Montana, thế mà tôi lại ở đó, giữa cả một đám trẻ thành phố tóc dài và hầu hết chúng đến từ New York. Lũ trẻ này có phong cách khác hẳn với lối tôi vốn quen. Tôi không thể xen vào lời nào trong giờ học. Chúng nó rất tọc mạch. Lúc nào cũng hỏi han lia lịa. Tôi bị nhồi vào một phòng ngủ tập thể. Có bốn đứa tất cả, ba đứa kia lối sống hoàn toàn khác với tôi. Chúng nó hút canabis (một loại thuốc phiện). Chúng nó còn dẫn cả bạn gái về phòng. Tôi chưa từng hút canabis bao giờ cả. Nên về cơ bản, tôi bắt đầu trốn biệt trong thư viện”.
Anh kể tiếp: “Thế rồi tôi để lỡ mất học bổng... Đáng ra mẹ tôi phải điền vào bản khai tình trạng tài chính để xin gia hạn học bổng nhưng bà lại lơ là việc ấy. Mẹ tôi rất lúng túng với các yêu cầu kiểu như vậy. Đến khi phát hiện ra học bổng không được gia hạn, tôi đến văn phòng trường để hỏi lý do. Họ nói với tôi là, chẳng có ai gửi cho họ bản khai tình trạng tài chính hết nên họ đã cấp phát xong tiền học bổng rồi, hết sạch rồi, tôi không còn học bổng ở đây nữa. Cái kiểu ở đó là vậy. Đơn giản là họ không thèm để ý. Họ không thèm đếm xỉa gì đến sinh viên của họ cả. Không có khuyên răn, không có tư vấn, chẳng gì hết”.
Chris rời khỏi Reed trước đợt thi cuối kỳ, mang theo mình một bảng toàn điểm chữ F (điểm kém). Trong học kỳ đầu tiên, cậu đạt toàn điểm A. Cậu trở lại Bozeman và làm việc trong ngành xây dựng, rồi làm việc như một lính cứu hỏa bảo vệ rừng trong suốt một năm rưỡi. Tiếp đó cậu vào học ở trường của bang Montana.
“Tôi theo học lớp toán và triết học”, anh nhắc chuyện cũ. “Và rồi trong kỳ học mùa đông, khi tôi lái xe cách thị trấn tới 13 dặm, trên đường Beach Hill, hộp truyền động của xe bị long ra. Lúc tôi đi vắng hồi mùa hè, mấy đứa em đã sử dụng xe. Chúng nó làm việc ở công ty đường sắt và đã lái xe trên đường ray. Tôi không có tiền để sửa xe.
Tôi tìm đến giáo viên hướng dẫn và cả chủ nhiệm khoa nữa để trình bày về việc rắc rối mình đang vướng phải. Em có tiết học vào bảy rưỡi sáng và tám rưỡi sáng, nhưng hộp truyền động của chiếc xe bị long ra. Vì thế, nếu thầy có thể làm ơn chuyển em xuống buổi học chiều của các lớp ấy, em sẽ rất cảm kích. Có một người hàng xóm là chủ trại gia súc sẽ ghé qua đón em vào mười một giờ hàng ngày.
Thầy giáo hướng dẫn của tôi là người đàn ông có ngoại hình cao bồi với bộ râu gọng, vận chiếc áo vét vải tuýt trong ảnh này đây. Ông ta nói, ‘Này con trai, sau khi xem bảng điểm của cậu ở trường Reed, tôi cho rằng giờ hẳn cậu đã ngộ ra việc mọi người buộc phải chấp nhận hy sinh để có được ít nhiều kiến thức. Đề nghị của cậu không thể chấp nhận được’. Tôi đến gặp chủ nhiệm khoa. Kết quả vẫn vậy”.
Giọng anh đanh lại. Anh đang kể lại những chuyện đã xảy ra hơn 30 năm trước, nhưng ký ức vẫn khiến anh giận dữ. […]
Những trải nghiệm của Langan ở Đại học Reed và Montana đóng vai trò bước ngoặt trong cuộc đời anh. Khi còn là một đứa trẻ, anh đã luôn ước mơ trở thành một viện sĩ. Đáng lẽ ra anh đã có được học vị tiến sĩ; các trường đại học chính là những cơ sở giáo dục chủ yếu được xây dựng nên để dành cho những người có niềm hứng thú và lòng ham hiểu biết sâu sắc với tri thức như anh vậy. […]
Không một mảnh bằng trong tay, Langan không biết nên làm gì. Anh làm việc ở công trường xây dựng. Một mùa đông giá lạnh anh làm việc trên con thuyền mò trai sò ở Long Island. Anh nhận việc vặt trong nhà máy rồi làm nhân viên quèn trong ngành dân chính, cuối cùng còn trở thành một tay bảo kê một quán bar ở Long Island. Đó là công việc chủ yếu trong những năm tháng trưởng thành của anh.
Dù vậy, anh vẫn tiếp tục đọc sâu về triết học, toán học và anh miệt mài viết một chuyên luận mà anh gọi là CTMU − Cognitive Theoretic Model of the Universe (tạm dịch: Mô hình lý thuyết liên quan đến nhận thức về vũ trụ). Nhưng do không có bằng cấp chứng chỉ đại học, anh không có chút hy vọng gì công bố công trình của mình trên một tạp chí chuyên ngành. […]
Đó là một câu chuyện đau lòng. Tôi hỏi Langan, giả định Đại học Harvard đưa ra đề nghị một công việc với anh, liệu rằng anh có nhận. “À, một câu hỏi khó đấy”, anh trả lời.
“Đương nhiên, là một giảng viên ở Harvard thì tôi sẽ có giá trị. Những ý kiến của tôi sẽ có trọng lượng, tôi có thể sử dụng vị thế và tư cách của mình ở Harvard để truyền bá ý tưởng. Một cơ sở đào tạo như thế chính là một nguồn năng lượng tri thức dồi dào, và nếu tôi ở một nơi như vậy, tôi có thể hấp thụ mọi rung động tinh tế nhất của bầu không khí học thuật đó”. Tôi bỗng nhiên cảm nhận rõ rệt rằng Chris cô độc biết bao. Anh ở đây, một con người với khát khao học hành vô tận, thế mà trong hầu hết phần đời trưởng thành lại bị ép buộc sống trong cảnh cô lập về tri thức.