Tuy triết học nghe có vẻ như là một bộ môn cao siêu khó nắm bắt, ta không nhất thiết phải là một triết gia để quan tâm đến triết học: Hầu hết chúng ta đều thực hành triết học trong đời sống hàng ngày.
YOLO là một trường phái triết học, tranh cãi về đạo đức trên Facebook là lập luận triết học, ta không thể sống mà không ít nhiều dính dáng đến triết học, bởi triết học là đời sống. Và cũng như cuộc sống của người phàm luôn bị ám ảnh và thúc đẩy bởi bóng ma cái chết, triết học cũng được định hình ở một mức độ đáng ngạc nhiên bởi cái chết của các triết gia.
Cuốn sách Chết cho tư tưởng của Costica Bradatan chỉ ra rằng không hiếm những triết gia bị dồn vào đường chết bởi những tư tưởng của họ, nhưng những cái chết ấy không những không phải là sự chấm hết cho sự nghiệp của họ, mà trái lại, chính là điểm bắt đầu của sự thăng hoa.
Socrates chẳng để lại một tác phẩm viết nào, nhưng ông vẫn đặt lên ngai ông tổ của triết học phương Tây, không nhờ gì khác hơn là cái chết đầy thuyết phục. Trước khi chết, Thomas More vừa là một người tôn thờ đức tin của mình đến mức khổ hạnh vừa là kẻ đàn áp dã man đức tin của người khác, và nếu không nhờ bị xử tử thì ông hẳn đã được hậu thế nhớ đến như một người hoàn toàn khác, chứ không phải một vị thánh.
Cái chết, dù của bất cứ ai, cũng gây ra những chấn động trong cộng đồng. Như cái tên ban nhạc đình đám một thời Linkin Park đã lâu nay không còn được nhắc tới, thì đến gần đây, khi ca sĩ chính Chester Bennington qua đời, lại quay trở về làm mưa làm gió.
Cái chết của anh truyền đi một thông điệp mạnh mẽ về chứng trầm cảm, không hề thua kém bất cứ thông điệp nào anh gửi đi bằng âm nhạc khi còn sống. Bản thân cái chết của anh là một phát biểu hùng hồn, và điều tương tự cũng không sai với những triết gia đã dành cả đời mình để phát biểu.
Tác phẩm Chết cho tư tưởng của Costica Bradatan. |
Triết gia Socrates, cho dù vĩ đại thế nào trong các phát biểu của ông, cũng không thể là một hình ảnh đứng độc lập, khi mà tất cả những gì hiện hữu của ông bằng văn bản viết đều là ghi chép của các học trò.
Khi nghĩ đến Socrates, người ta lập tức nghĩ đến nhân vật Socrates trong tác phẩm của Plato, người học trò xuất sắc nhất của ông. Ảnh hưởng của ông sau khi chết vì vậy vượt xa những ảnh hưởng mà một đời diễn thuyết của ông ở Athens có thể tạo ra, nhất là khi những lời diễn thuyết ấy cũng không cứu ông khỏi cái chết.
Những lời tự biện của Socrates không thể thuyết phục nổi bồi thẩm đoàn, vì dường như toàn bộ dân chúng thành Athens đã mệt mỏi vì lời lẽ của ông. Đến thời điểm này, cách duy nhất để Socrates biểu đạt tư tưởng của mình là phải vượt lên trên mọi từ ngữ.
Ông chỉ còn lại thân thể của mình, và bằng cách hiến dâng nó cho cái chết, ông đã truyền đạt được ý nghĩa to lớn nhất của cuộc đời một triết gia. Có thể nói cái chết của ông chính là màn biểu diễn xuất sắc nhất: Cái chết cũng như cuộc sống của Socrates là những điển hình sống động về triết lý của chính ông, nhưng cái chết đã biến ông trở thành một hình mẫu theo cách mà đời sống không thể.
Hình mẫu của Socrates có ảnh hưởng to lớn, bởi ông vừa là hình tượng triết gia đầu tiên vừa là hình tượng triết gia-tử đạo trước nhất. Chết cho tư tưởng có thể không phải một rủi ro nghề nghiệp quá thường gặp với triết gia, nhưng nó đã nằm trong cốt lõi của triết học phương Tây, và một triết gia muốn sống đúng với truyền thống triết học thì phải ứng xử như thể việc này có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Cái chết, trong cả vai trò một chủ đề triết luận và một hiện thực triết gia phải đối mặt, khơi gợi nhiều suy tư về chính bản chất của triết học. Chết cho tư tưởng là một cuộc khám phá lý thú về chủ đề này, khi nó đi sâu vào nhiều khía cạnh của cái chết trong triết học để cuối cùng đem đến suy ngẫm về triết học trong tương quan với cuộc sống.