Ilu dài khoảng 7 m, được ví như những “chiến mã” dưới đại dương với cổ dài, sáu chân chèo và đuôi giống như bánh lái. Chúng được xây dựng trên hình tượng loài thằn lằn đầu rắn cổ đại (Plesiosaur), sinh sống chủ yếu gần các rạn san hô. Ilu thông minh và dễ thuần hóa, là động vật có khả bơi lội cừ khôi bậc nhất dưới lòng biển. Xuất hiện trong nhiều cảnh phim Avatar 2, Ilu được cho là thú cưỡi phổ biến của những bộ lạc thủy tộc. Tuy nhiên, chúng không phát triển mối liên hệ tinh thần với chủ nhân và có thể được cưỡi bởi bất cứ ai thông qua liên kết kuru. Ảnh: Avatar. |
Skimwing còn được người Na'vi gọi là Tsurak, là loài sinh vật biển to lớn, với hình dạng tương tự như cá chuồn. Trong lúc bay, các vây màu cam của Skimwing mở ra hết cỡ giúp chúng thoát khỏi mặt nước. Khi đang bơi, các vây nép sát vào cơ thể, tạo thành một hình dạng giống quả ngư lôi với chiếc đuôi chèo mạnh mẽ đẩy chúng tiến về phía trước. Skimwing có thể di chuyển với tốc độ lên tới 50 hải lý/giờ. Người Metkayina và các thủy tộc sống khác sử dụng chúng để săn những con mồi lớn hơn trên mặt nước hoặc để lặn sâu hơn. Loài này cũng được dùng làm thú cưỡi khi chiến đấu. Tuy nhiên, chỉ những thợ săn lành nghề nhất mới có thể chế ngự được một con Skimwing bởi chúng có tính cách thất thường và phải tốn nhiều thời gian để hình thành liên kết tinh thần với chủ nhân. Ảnh: 20th Century Studios. |
Akula là loài săn mồi lớn nhất rạn san hô, được xây dựng trên hình mẫu cá mập trắng khổng lồ. Chúng sở hữu hàm răng sắc như dao cạo và lớp da dày, cứng như giáp sắt bao quanh cơ thể. Akula săn mồi bằng cách phục kích và tấn công bất ngờ. Thử thách “khó nhằn” nhất với những thợ săn Na’vi là việc đánh đuổi hoặc giết chết một con Akula trưởng thành đang săn mồi quanh khu vực làng của họ. Ra mắt khán giả trong Avatar 2, Akula gây ấn tượng với màn truy đuổi Lo’ak – con trai thứ của gia đình Jake Sully. Chúng cũng có ý nghĩa văn hóa quan trọng đối với thủy tộc Metkayina. Những chiếc dao răng cưa của họ được mô phỏng theo răng của Akula. Trong khi đó, tộc trưởng Tonowari cũng đeo vòng cổ được chế tác bằng răng của chúng. Ảnh: Avatar. |
Tulkun dài khoảng 90 m, là động vật to lớn và thông minh nhất của đại dương. Làn da của chúng màu xám xanh, với khoảng trắng lớn ở dưới bụng. Tulkun có bốn mắt, chia đều ở hai bên đầu. Chúng có sáu chân chèo, trong đó hai chân chèo cuối cùng đã hợp nhất để trở thành một phần vây đuôi, tương tự hải cẩu. Loài Tulkun có ngôn ngữ riêng và rất thân thiết với gia tộc Metkayina. Với trí tuệ vượt bậc, chúng có thể cảm nhận âm nhạc hay thậm chí làm thơ, giải toán. Hàng thiên niên kỷ trước, các tulkun đã tham gia vào những cuộc chiến đẫm máu kéo dài qua nhiều thế hệ. Cuối cùng, chúng thống nhất thay đổi cách thức sống và tôn thờ chủ nghĩa hòa bình tuyệt đối. Vì sự hiền lành, nói không với giết chóc, Tulkun bị những nhà sinh vật học trên Trái đất lợi dụng và tìm cách săn lùng. Họ phát hiện ra một chất tự nhiên xuất hiện trong não của chúng, được gọi là amrita, với khả năng ngăn chặn quá trình lão hóa. Ảnh: Avatar. |
Payakan là một cá thể thuộc loài Tulkun, xuất hiện lần đầu trong Avatar 2. Vì vi phạm lời thề cấm giết chóc, Payakan bị đồng loại ruồng bỏ và phải chấp nhận sống cô độc. Nó có một chiếc vây bị cụt do trận chiến với loài người năm xưa. Payakan từng giải cứu Lo’ak – con trai của Jake Sully khi anh đang bị Akula săn đuổi. Cả hai quyết định kết bạn với nhau vì thấu hiểu cảm giác bị mọi người bỏ rơi. Trong trận chiến cuối cùng, Payakan đã nhiều phen cứu gia đình Jake khỏi những bàn thua trông thấy. Ảnh: 20th Century Studios. |
Gill Mantle, còn được gọi là Txampaysye, xuất hiện dọc các vùng biển của Pandora. Chúng mang hình dạng tựa như loài sứa với cơ thể bán trong suốt với những dải màu phát quang. Loài động vật này là một công cụ hữu ích giúp người dân thủy tộc kéo dài thời gian lặn dưới nước, cung cấp oxy cho họ thông qua liên kết kuru. Xuất hiện trong Avatar: The Way of Water, Gill Mantle được Kiri sử dụng để cứu mẹ con Neytiri và Tuk khỏi cảnh đuối nước khi họ đang mắc kẹt trong con tàu chiến SeaDragon bị chìm. Ảnh: Avatar. |
Ikran, hay có tên gọi khác là Moutain Banshee, được người Na'vi tôn sùng và gắn bó mật thiết với truyền thống, lịch sử của họ. Những người Na’vi sinh sống trong rừng/núi sẽ phải trải qua nghi thức Iknimaya, đòi hỏi họ phải liên kết được với một con Ikran. Trái ngược với các sinh vật khác, mỗi cá thể Ikran sẽ chỉ gắn bó với một chủ nhân duy nhất trong suốt cuộc đời của nó. Mang hình dáng của loài rồng bay, Ikran dài khoảng 15 m, với màu sắc đa dạng. Chúng được người Na'vi sử dụng để đi săn bắn và di chuyển những trong những hành trình dài. Ikran cũng được sử dụng trong trận chiến, giúp tiếp cận và tấn công đối thủ từ trên không. Chúng sinh sống trên tận cùng dãy núi Hallelujah. Trong khi đó, những con Ikran được thuần hóa lại làm tổ trên những cành cây cao nhất của Hometree, nơi chúng có thể sống gần với chủ nhân của mình. Ảnh: 20th Century Studios. |
Viperwolf là loài động vật ăn thịt nhỏ, giống linh cẩu/sói và dài khoảng 2 m. Chúng có sáu chân, thân hình săn chắc và khứu giác tuyệt vời, có thể đánh hơi được con mồi từ khoảng cách 5 dặm. Đặc biệt, hàm răng dài và sắc nhọn của chúng là vũ khí cực kỳ đáng sợ, có thể nghiền nát cả xương. Loài vật săn mồi này hầu như luôn di chuyển theo bầy, tạo thành một tập hợp săn mồi hiệu quả cao. Xuất hiện ngay từ phần một, Viperwolf tấn công Jake Sully khi anh bị lạc trong rừng vào ban đêm. Chúng cũng tham gia vào trận chiến với “Người Trời” vì được triệu hồi bởi Eywa, vị thần của hành tinh Pandora. Tái xuất trong Avatar 2, Viperwolf chỉ góp mặt trong một vài cảnh phim nhỏ. Ảnh: 20th Century Studios. |
Tủ sách Điện ảnh - Truyền hình giới thiệu những cuốn sách hay và mới nhất về nền công nghiệp điện ảnh, công nghệ truyền hình của Việt Nam cũng như thế giới. Ngoài ra, tủ sách còn giới thiệu các tác phẩm đáng đọc về các bộ phim, diễn viên, MC... nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới.