Nhiều người tiêu dùng - cả chuyên gia và những người theo thời thượng - đã chuyển sang uống cà phê decaf khi xu hướng sức khỏe là trên hết đạt đỉnh điểm vào đầu những năm 1980. Có căn nguyên lịch sử từ xa xưa, cà phê đã bị cáo buộc làm hại sức khỏe mọi người, từ những phụ nữ London năm 1674 nghĩ rằng nó là nguyên nhân khiến đàn ông bất lực cho đến C.W Post khẳng định rằng thứ nước giải khát này tấn công “các dây dây thần kinh phế vị”.
Tuy nhiên, giờ đây những lo ngại về sức khỏe dần leo thang, do đó ngay cả người uống cà phê ở mức trung bình cũng lo lắng về những gì có trong cốc cà phê buổi sáng của họ.
Trong suốt những năm cuối thập niên 1970, Michael Jacobson của Trung tâm Khoa học vì Lợi ích Cộng đồng (CSPI) đã đòi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) loại bỏ caffeine ra khỏi danh sách các loại thuốc kích thích được phân loại là “Tương đối An toàn” (GRAS). FDA thì do dự không dám công bố như vậy, vì sẽ mang lại những hậu quả kinh tế tai hại khó lường cho các ngành cà phê, trà và cola.
Trong tháng 11/1979, Jacobson đã đệ đơn lên FDA yêu cầu dân nhân cảnh báo trên bao bì cà phê và trà "Caffeine có thể gây dị tật bẩm sinh". Đồng thời, ông đã ban hành một thông cáo báo chí và viết thư cho 14.000 bác sĩ sản khoa cùng nữ hộ sinh. Tại một buổi họp báo, ông đại diện cho một phụ nữ tuyên bố rằng thói quen nghiện cà phê nặng của cô là “lời giải thích hợp lý” duy nhất cho dị tật của con cô.
"Đột nhiên", Chủ tịch NCA George Boecklin nói với những người làm trong ngành cà phê, "chủ đề vốn là một câu hỏi khoa học... cũng đã trở thành một vấn đề liên quan tới pháp lý và quan hệ công chúng”.
Trong một cuộc họp khẩn cấp, NCA tài trợ cho một chương trình 250.000 đôla thuê chuyên gia tư vấn quan hệ công chúng chống lại CSPI và vận động FDA giữ caffeine ở trong danh sách GRAS. NCA đã chứng minh bằng những con chuột bị buộc phải ăn một liều tương đương với 35 cốc cà phê cùng một lúc. Viện Khoa học Quốc tế về Đời sống (ILSI) , thành lập vào năm 1978, đã gia nhập NCA để tiến hành các nghiên cứu dịch tễ học về caffeine.
Bị tấn công dồn dập về mặt chính trị, FDA quanh co: “Chúng tôi không nói rằng caffeine là không an toàn”, Sanford Miller của FDA cho biết. “Chúng tôi chỉ không nói rằng nó an toàn”.
Cơ quan này cảnh báo không nên sử dụng caffeine đối với phụ nữ mang thai nhưng không yêu cầu phải có một nhãn cảnh báo.
Năm tiếp theo, một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy mối liên hệ giữa cà phê với bệnh ung thư tuyến tụy, tạo sự chú ý của phương tiện truyền thông đại chúng và những câu chuyện cười bệnh hoạn về cà phê là “ngon chết người đến giọt cuối cùng”. Một sinh viên trường y nói với người bạn cùng lớp hay uống cà phê, “Nếu cậu đăng ký ngay bây giờ, tớ sẽ thực hành cách mổ Whipple cho cậu theo giá cả hiện hành", để đề cập đến hoạt động mổ tuyến tụy.
Một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy mối liên hệ giữa cà phê với bệnh ung thư tuyến tụy. Ảnh: Time Out. |
Sau đó, một nghiên cứu mới nhận định rằng có mối quan hệ giữa caffeine với sự hình thành các khối u ngực lành tính. Một tuyên bố khác lại cho rằng cà phê gây rối loạn nhịp tim, trong khi cuộc khảo sát ở Na Uy cho thấy mức độ cholesterol cao ở người nghiện cà phê nặng.
Ấn phẩm Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (tạm dịch: Chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần) năm 1980, kim chỉ nam của Hiệp hội Tâm thần Mỹ, thêm “caffeinism” là một dạng triệu chứng, làm cho việc tiêu thụ quá nhiều cà phê thực sự trở thành chứng rối loạn tâm thần.
Năm 1981, Charles Wetherall công bố cuốn Kicking The Coffee Habit (tạm dịch: Dẹp bỏ thói quen uống cà phê), một cuốn sách dành riêng “cho 15 triệu người nghiện cà phê tại Mỹ, những người bị dính vào một loại nghiện ngập - và có thể thậm chí không hề hay biết điều đó”.
Những người uống cà phê đã “mạo hiểm với hàng chục mối nguy cho sức khỏe - một trong số đó là khả năng tử vong”. Wetherall ghi rằng loại nước giải khát, mà ông gọi là “Kẻ thù số một cho sức khỏe cộng đồng”, đã tiến hành “một cuộc chiến tranh bệnh lý trên đất nước này”.
"Do hàng núi nghi ngờ về các tác hại xấu cho sức khỏe của caffeine", nhà báo chuyên mục sức khỏe Jane Brody đã viết vào năm 1982, "hàng triệu người Mỹ đang cố gắng giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn sự phụ thuộc vào chất kích thích tinh thần và thể chất nhân tạo này".
Cô để ý thấy chồng mình uống chừng 8 cốc cà phê hoặc nhiều hơn mỗi ngày và "có những đợt khó ở, lo âu và trầm cảm". Không cho chồng mình biết, cô trộn lẫn cà phê đã loại bỏ caffeine với cà phê thường của anh ta với liều lượng ngày càng tăng dần và tình trạng đó biến mất .
Hiệp hội Cà phê Quốc gia mạnh mẽ chống lại các lời vu khống, tài trợ cho các nghiên cứu và thu thập thành một tập hồ sơ gồm hàng nghìn bài viết từ các tài liệu y học và khoa học. Nhiều nhà khoa học và các bác sĩ độc lập khác đã chỉ ra sai sót trong những phát hiện chống lại cà phê và một nghiên cứu trên 12.000 phụ nữ mang thai vào năm 1982 cho thấy không có tác động xấu nào được phát hiện từ việc tiêu thụ cà phê.
Tuy nhiên, thiệt hại là sự đã rồi. Năm 1984, hai nhà xã hội học liệt cà phê vào loại “góp phần vào các vấn đề xã hội” trong tâm thức cộng đồng. Trong những năm 1980, cà phê được liên kết với hơn một trăm ca bệnh lý và chứng rối loạn. Mặc dù các nghiên cứu sau đó đã đặt những kết quả tìm được vào vòng nghi vấn, nhưng nỗi sợ hãi đã cấy vào nhiều người tiêu dùng dẫn tới lựa chọn cà phê được khử chất caffeine thay thế hoặc tránh xa cà phê nguyên chất hoàn toàn. Số lượng người Mỹ uống cà phê đã giảm từ 58% vào năm 1977 còn 50% trong năm 1988 .