Những thiệt hại này được Chính phủ thể hiện trong báo cáo gửi Quốc hội về tình hình phòng, chống thiên tai, bão lũ ở các tỉnh miền Trung.
Chính phủ cho biết từ tháng 10 đến nay, bão lũ liên tiếp xảy ra tại các tỉnh miền Trung với phạm vi rộng, cường độ rất mạnh và gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Bão chồng bão
Tình trạng “bão chồng bão”, “lũ chồng lũ” chưa từng có trong nhiều năm qua đã gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản, ảnh hưởng nặng nề tới đời sống và sản xuất của hàng triệu người dân.
Thống kê của Chính phủ cho thấy thời gian qua có 5 cơn bão (số 5, 6, 7, 8, 9) đổ bộ vào các tỉnh phía Bắc và Trung Trung Bộ, gây ra mưa đặc biệt lớn, lũ lịch sử.
Ngập lụt xảy ra trên diện rộng, thời điểm cao nhất vào ngày 12/10 và 19/10 với trên 317.000 hộ (1,2 triệu nhân khẩu) bị ngập lụt tại các địa phương từ Nghệ An đến Quảng Nam, nhiều nơi ngập sâu, có nơi kéo dài tới 15 ngày.
Trong đó, Quảng Bình là tỉnh bị ngập nặng nhất với trên 109.000 hộ (437.000 nhân khẩu), có nơi ngập sâu 2-3 m (tại các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh).
Thời gian qua có 5 cơn bão (số 5, 6, 7, 8, 9) đổ bộ vào các tỉnh phía Bắc và Trung Trung Bộ, gây ra mưa đặc biệt lớn, lũ lịch sử. Ảnh: Duy Hiệu. |
Đặc biệt, các đợt bão chồng bão và mưa, lũ lớn liên tục gây ra nhiều vụ sạt lở đất rất nghiêm trọng, nhất là tại công trình thủy điện Rào Trăng 3; Trạm Kiểm lâm số 67 Phong Điền (Thừa Thiên - Huế); Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 337 ở Hướng Hóa (Quảng Trị); Trà Leng và Trà Vân, huyện Nam Trà My và Phước Lộc, huyện Phước Sơn (Quảng Nam), cướp đi sinh mạng của nhiều người dân và hàng chục cán bộ, chiến sĩ.
“Dù các cấp, các ngành nỗ lực phòng chống, từ cuối tháng 9 đến nay, mưa lũ lớn lịch sử, kéo dài, bão số 9 có cường độ mạnh, di chuyển nhanh, phạm vi rộng, sức tàn phá rất lớn nên đã gây thiệt hại nặng nề”, báo cáo của Chính phủ nêu.
Báo cáo Quốc hội, Chính phủ cho biết thiên tai đã khiến 235 người chết và mất tích (riêng bão số 9 là 80 người); trên 201.000 ngôi nhà bị sập, hư hỏng, tốc mái (riêng bão số 9 là trên 177.000 ngôi nhà).
Ngoài ra, trên 1,8 triệu m3 đất, đá sạt lở (riêng bão số 9 làm sạt lở 744.000 m3), gây chia cắt nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch, cả quốc lộ, tỉnh lộ và các đường liên thôn, liên xã, gây khó khăn lớn cho công tác cứu trợ, cứu hộ, cứu nạn.
Sơ bộ, ước tính thiệt hại về kinh tế là khoảng 17.000 tỷ đồng, trong đó riêng thiệt hại do bão số 9 là hơn 10.000 tỷ đồng (chưa kể nhiều cơ sở hạ tầng và hàng trăm km đê điều, kênh mương, bờ sông, bờ biển bị hư hỏng, sạt lở).
6 giải pháp trước mắt
Thời gian tới, Chính phủ xác định 6 nhiệm vụ cấp bách trước mắt bao gồm: Huy động mọi lực lượng, phương tiện tiếp tục tập trung tìm kiếm các nạn nhân bị mất tích; tập trung cứu trợ cho người dân sau bão, lũ; khắc phục nhanh các công trình hạ tầng bị hư hỏng; tập trung xử lý vệ sinh môi trường; theo dõi chặt chẽ diễn biến, chủ động triển khai các biện pháp ứng phó thiên tai; tập trung hỗ trợ người dân phục hồi sản xuất sau bão, lũ để sớm ổn định lại sản xuất và đời sống cho người dân.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng nêu rõ 7 nhiệm vụ căn bản, lâu dài.
Đầu tiên, cơ quan chức năng cần nghiên cứu, đánh giá cụ thể và rà soát xây dựng lại kịch bản biến đổi khí hậu để đưa ra các giải pháp ứng phó phù hợp, nhất là việc xây dựng các quy định, tiêu chuẩn, quy chuẩn cụ thể để xây dựng các thiết chế hạ tầng như đường giao thông, các công sở, nhà ở… đảm bảo phù hợp, an toàn trước thiên tai.
Thứ hai, nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai đảm bảo kịp thời, chính xác hơn, phục vụ công tác chỉ đạo, ứng phó được hiệu quả; hiện đại hóa mô hình, công nghệ dự báo; bổ sung các trạm quan trắc khí tượng thủy văn, nhất là các trạm đo mưa, trong đó cần đẩy mạnh xã hội hóa công tác quan trắc.
Hiện trường một vụ sạt lở đất ở Quảng Nam sau cơn bão số 9 vừa qua. Ảnh: Duy Hiệu. |
Thứ ba, đẩy mạnh việc xây dựng, lập các bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở đất, lũ quét, bản đồ ngập lụt hạ du các hồ chứa với tỷ lệ phù hợp, làm cơ sở quy hoạch bố trí dân cư, chủ động di dời, tái định cư ở các khu vực có nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt.
Thứ tư, điều chỉnh, lồng ghép nội dung phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển của các ngành, địa phương theo hướng kết hợp đa mục tiêu; hạn chế việc gia tăng rủi ro thiên tai, thích ứng với đặc điểm của từng vùng, miền, nhất là vùng ven biển, khu vực đông dân cư và xu hướng biến đổi khí hậu.
Thứ năm, kiện toàn tổ chức, bộ máy phòng chống thiên tai chuyên nghiệp từ Trung ương đến địa phương, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có năng lực, trình độ phù hợp, đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai.
Thứ sáu, xây dựng và triển khai chương trình ứng dụng khoa học công nghệ sản xuất trang thiết bị, nhu yếu phẩm cần thiết cho công tác phòng, chống thiên tai phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Cuối cùng, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương phải ưu tiên bố trí kinh phí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và dự phòng ngân sách hàng năm của Trung ương và địa phương cho công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
Trong đó, chú trọng đầu tư cho các công trình hạ tầng phòng chống thiên tai thiết yếu, cấp bách, các công trình hạ tầng kinh tế, xã hội, dân sinh gắn với công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn từ Trung ương đến địa phương, nhất là lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai tại cơ sở.