Handley Page Type O 400
Handley Page Type O 400. Ảnh: Wikipedia. |
Các cuộc tấn công ném bom chiến lược đầu tiên trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất được thực hiện bởi các khinh khí cầu của Đức. Do trọng lượng khá nhẹ nên nó có khả năng bay cao hơn so với các máy bay đánh chặn khi đó và đã giúp Đức tấn công có hiệu quả một số mục tiêu của Anh và vài quốc gia khác.
Cùng với sự phát triển về khả năng đánh chặn và hệ thống phòng không theo thời gian, Đức, Italy và Anh bắt đầu nghiên cứu những loại máy bay ném bom có khả năng mang tải trọng nhiều hơn và bay xa hơn để đối chọi với quân Đức. Theo đó, công ty hàng không Handley Page của Anh đã nghiên cứu và chế tạo ra loại máy bay ném bom hai tầng cánh Type O 400.
Máy bay ném bom hai tầng cánh Type O 400 có tốc độ nhanh hơn và có khả năng mang tải trọng nhiều hơn so với máy bay ném bom cùng thời bấy giờ là Gotha IV và Caproni Ca.3.
Type O 400 có sải cánh gần bằng Avro Lancaster. Với tốc độ cực đại đạt 97 dặm/giờ và tải trọng cất cánh tối đa lên đến 6 tấn, O 400 là một trong những trụ cột của không quân độc lập Hugh Trenchard trong giai đoạn gần cuối cuộc chiến. Một đơn vị O 400 đã phá hủy có hiệu quả những căn cứ không quân cũng như các cơ sở hậu cần của quân Đức. Các cuộc oanh tạc này cũng đặt nền tảng lý thuyết tác chiến không quân sau đó, trong đó (ít nhất là Mỹ và Anh) đã định hình ra cách thức phá hủy các mục tiêu của đối phương quy mô lớn.
Khoảng 600 chiếc O 400 đã được sản xuất trong Thế chiến thứ I và chiếc cuối cùng được cho “nghỉ hưu” vào năm 1922. Trong thời gian này, các nước như Mỹ, Trung Quốc và Australia cũng trang bị O 400 cho lực lượng không quân của mình với số lượng nhỏ.
Junkers Ju 88
Junkers Ju 88. Ảnh: Stelzriede. |
Đức đã sử dụng Junkers Ju 88 tham gia tác chiến lần đầu tiên trong chiến dịch xâm lược Ba Lan, Na Uy và trận chiến với Pháp. Trong trận chiến với Anh, Ju 88 đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành công nghiệp và cơ sở hạ tầng của Anh. Trong chiến dịch Barbarossa bị không kích nặng nề sau khi xé nát đội hình xe tăng và phá hủy nhiều trận địa phòng thủ của Liên Xô trên mặt đất.
Với chi phí tương đối rẻ nhưng hiệu quả cao, giữa năm 1939 và 1945 không quân Đức đã sản xuất khoảng 15.000 chiếc Ju 88 S và phục vụ cho lực lượng không quân Axis.
De Havilland Mosquito
De Havilland Mosquito. |
De Havilland Mosquito là máy bay chiến đấu đa năng xuất hiện trong Chiến tranh Thế giới thứ hai với hàng loạt nhiệm vụ quan trọng. Nó được chế tạo gần như hoàn toàn bằng gỗ, nên có biệt danh là "The Wooden Wonder" hay các phi công gọi một cách trìu mến là "Mossie".
Mossie có thể bay dễ dàng với buồng lái điều áp với trần bay cao. Với trọng lượng tương đối nhẹ do cấu tạo hoàn toàn bằng gỗ và trang bị động cơ Merlin tiên tiến, nó dễ dàng vượt qua các máy bay ném bom khác như Bf109 của Đức và hầu hết các máy bay chiến đấu khác của quân đồng minh lúc đó về tốc độ cũng như trần cao.
Mặc dù tải trọng bom của De Havilland Mosquito bị hạn chế, tốc độ tuyệt vời của nó kết hợp với các trang bị hiện đại cho phép nó có khả năng oanh tạc chính xác các mục tiêu của đối phương hơn các máy bay ném bom khác. Trong chiến tranh, không quân Hoàng gia Anh sử dụng De Havilland Mosquito cho các cuộc tấn công chính xác các mục tiêu có giá trị cao, trong đó có trụ sở của chính phủ, và các cơ sở phóng tên lửa V của Đức. Ngoài ra, máy bay này cũng thực hiện nhiệm vụ nghi binh đánh lạc hướng máy bay chiến đấu Halifaxes và Lancasters của quân Đức.
De Havilland được sản xuất hơn 7.000 chiếc trang bị cho không quân Anh và một số nước đồng minh khác.
Avro Lancaster
Avro Lancaster. |
Năm 1942, chiếc Lancasters đầu tiên bắt đầu hoạt động. Với tải trọng bom lớn hơn nhiều trong khi bay với tốc độ tương tự và một phạm vi dài hơn một chút so với B-17 hoặc B-24, nó đã làm lu mờ vai trò của các loại máy bay ném bom cùng thời như Handley Page Halifax. Từ năm 1942 đến năm 1945, Lancaster của không quân Anh tiêu diệt hầu hết các đô thị của Đức và dẫn đến cái chết của hàng trăm nghìn người dân Đức.
Hơn 7.000 chiếc Lancasters đã được chế tạo và chiếc cuối cùng bị thải loại vào năm 1960 sau khi Canada sử dụng chúng thực hiện nhiệm vụ trinh sát và tuần tra biển lần cuối.
Boeing B-52 Stratofortress
Boeing B-52 Stratofortress. |
B-52 được thay thế cho B-36 và B-47. Với những tính năng vượt trội của B-52, BUF lần đầu tiên đưa B-52 vào cuộc chiến tại chiến trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, B-52 đã chịu thất bại nặng nề và duy nhất trên chiến trường ở Việt Nam trong chiến dịch Linebacker II. Trong chiến tranh vùng Vịnh, B-52 đã thực hiện chiến dịch ném bom các vị trí chiến lược của quân đội Iraq làm mất ý trí của quân đội Iraq. Trong cuộc chiến chống khủng bố, B-52 đã tham gia đóng vai trò quan trọng yểm trợ, cung cấp vũ khí, xác định chính xác vị trí của quân nổi dậy Iraq và Taliban.
Và gần đây nhất, hai chiếc B-52 của Mỹ đã cố tình đi vào Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) mà Trung Quốc vừa thiết lập trên biển Hoa Đông trong một động thái ngoại giao ám chỉ sự phản đối với tuyên bố này của Bắc Kinh.
Từ giữa năm 1954 đến 1963, 74 chiếc B-52 đã được chuyển giao, 78 chiếc tiếp tục phục vụ trong không quân Mỹ. Trải qua thời gian, chiếc B-52 sẽ tiếp tục được phát triển và hứa hẹn sẽ kéo dài đến năm 2030, hoặc có thể xa hơn. Trong đại gia đình “thần sấm”, chiếc B-52 đã chứng tỏ được độ bền và tuổi thọ đáng nể.