Mối liên kết đặc biệt giữa mẹ và con là đặc điểm riêng của động vật có vú và rất có thể đã tiến hóa sớm nhất vào khoảng 225 triệu năm trước. Các loài bò sát và cá thường đẻ trứng rồi bỏ mặc con non tự sinh tồn. Loài chim có bản năng làm cha mẹ mạnh mẽ hơn, bảo vệ trứng và chăm sóc chim non trong tổ.
Nhưng loài động vật có vú thì cho con bú, tạo ra một kết nối thể chất đầy mạnh mẽ. Chính cái tên “động vật có vú” (mammal) xuất phát từ mamma, nghĩa là tuyến vú và biểu thị việc nuôi dưỡng trẻ sơ sinh bằng sữa mẹ. Mối gắn bó ấy là chìa khóa cho đời sống xã hội trong thế giới động vật có vú, giúp chúng ta sớm trải nghiệm được sức hút - và cả sự cần thiết - của những người xung quanh.
Tuy nhiên, trong số các loài động vật có vú và thậm chí cả các loài linh trưởng, con người có tuổi thơ kéo dài lâu hơn bất kỳ loài nào khác. Đây là kết quả của một sự đánh đổi.
|
| Thời thơ ấu của con người kéo dài hàng chục năm. Ảnh: Timewell.io. |
Nhà tâm lý học Mark Johnson, chuyên gia về nhận thức phát triển tại Đại học Cambridge và Trường Birkbeck, Đại học London, cho biết: “Tốc độ phát triển trí não của chúng ta bị chậm lại một cách đáng kể, điều này mang lại hệ quả tích cực là chúng ta có thể để trải nghiệm sau khi sinh định hình bộ não của mình nhiều hơn nữa. Tất nhiên, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta sinh ra trong trạng thái bất lực hơn các loài linh trưởng khác.”
Cứ như thể những đứa trẻ sơ sinh của loài người đến với thế giới này khi vẫn còn “chưa chín tới” đến mức một số bác sĩ nhi khoa gọi ba tháng đầu đời là “tam cá nguyệt thứ tư”. Thiên nhiên đã phải thỏa hiệp. Để con người có thể đi thẳng bằng hai chân, xương chậu của phụ nữ phải thu hẹp lại. Một thai kỳ kéo dài khoảng 40 tuần sẽ tạo ra một em bé đạt đến ngưỡng tối đa mà người mẹ có thể sinh thường qua đường âm đạo.
Khi ra đời, những đứa trẻ này hoàn toàn phụ thuộc, không có khả năng gì hơn ngoài việc ăn, ngủ và khóc. Ngay cả những ông bố bà mẹ đắm say nhất cũng có thể được tha thứ cho suy nghĩ rằng trẻ sơ sinh không phải là một sinh thể có tính xã hội cao. Sự cho và nhận qua một mối quan hệ xã hội - sự kêu gọi và phản hồi của hành động và phản ứng - ngay từ đầu đã cực kỳ lệch pha. Mọi nỗ lực đều đến từ phía phụ huynh.
Thế nhưng, ngay từ đầu, một nền tảng xã hội khổng lồ đã được hình thành. Các giác quan - thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác - là các kênh tiếp nhận giúp em bé tiếp nhận các chi tiết về môi trường xung quanh và truyền chúng đến não bộ của mình. Phần não bộ ấy đã được lập trình sẵn với khuynh hướng ưu tiên tương tác xã hội, giống như một chiếc máy tính được cài sẵn phần mềm đang chờ lệnh thích hợp để có thể chạy vận hành.
Những khuôn mặt, giọng nói và những cái vuốt ve yêu thương là lệnh để khởi động chương trình ấy. John Bowlby từng viết: “Từ những khởi đầu nhỏ bé này, chúng đã nảy sinh ra tất cả các hệ thống tinh vi và có tính phân biệt cao mà về sau, trong giai đoạn cuối của thời thơ ấu - thực ra là trong suốt quãng đời còn lại - sẽ điều phối sự gắn bó với những người cụ thể. Và các nhà khoa học thần kinh gần đây mới bắt đầu hiểu rõ hơn quá trình này - cách mà bộ não xã hội hình thành và vận hành.