Thời gian qua, báo chí phản ánh ngưỡng chịu thuế của hoạt động cho thuê nhà của cá nhân hiện nay là 10%, trong khi nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ khác dao động 4,5-7%. Nếu so với gửi tiền tiết kiệm ngân hàng, việc cá nhân bỏ nhiều tỷ để đầu tư bất động sản cho thuê phải chịu thuế mà không được trừ bất kỳ khoản chi phí nào là không hợp lý.
Thêm vào đó, ngưỡng doanh thu cho thuê nhà trên 100 triệu đồng/năm (8,3 triệu đồng/tháng) đã thuộc diện nộp thuế cũng không còn phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP.HCM. Nếu áp dụng mức này thì hầu hết chủ căn hộ đều phải đóng thuế.
Lý giải về ngưỡng và thuế suất với hoạt động cho thuê nhà, bà Tạ Thị Phương Lan, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ, vừa và hộ kinh doanh, cá nhân (Tổng cục Thuế) cho biết theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) và Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) thì cá nhân kinh doanh có mức doanh thu từ 100 triệu trở xuống không thuộc diện chịu thuế.
Các trường hợp cá nhân có BĐS cho thuê có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm (trên 8,3 triệu đồng/tháng) được xác định là đối tượng phải kê khai, nộp thuế.
Nhiều người thuê căn hộ tại TP.HCM sợ thuế cho thuê căn hộ sẽ bị áp vào giá thuê cuối cùng. Ảnh: Chí Hùng. |
Theo quy định, hoạt động cho thuê tài sản không kèm theo dịch vụ lưu trú chịu thuế 10% (GTGT 5%, TNCN 5%). Dịch vụ lưu trú không tính vào hoạt động cho thuê tài sản gồm: Cung cấp cơ sở lưu trú ngắn hạn cho khách du lịch, khách vãng lai; cung cấp cơ sở lưu trú dài hạn cho sinh viên, công nhân và những đối tượng tương tự; cung cấp cơ sở lưu trú cùng dịch vụ ăn uống và các phương tiện giải trí.
Dịch vụ lưu trú không bao gồm: Cung cấp cơ sở lưu trú dài hạn được coi như cơ sở thường trú như cho thuê căn hộ hàng tháng hoặc hàng năm được phân loại trong ngành bất động sản theo quy định của pháp luật về hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam.
Như vậy, mặc dù thuế suất đối với hoạt động cho thuê bất động sản ở mức cao hơn so với các loại hình kinh doanh dịch vụ khác, nhưng đã loại trừ các hoạt động mang tính lưu trú, các hoạt động cho thuê đối với những đối tượng yếu thế trong xã hội như sinh viên, công nhân và những đối tượng tương tự.
Những trường hợp cho thuê bất động sản thuộc diện chịu thuế 10% đều được xác định là những trường hợp kinh doanh bất động sản (theo Luật Kinh doanh bất động sản). Việc kinh doanh bất động sản theo hình thức cho thuê trong thời gian qua, mặc dù không bằng lãi tiết kiệm khi để tiền ngân hàng, khách hàng thuê không ổn định, vẫn thu hút nhiều cá nhân có tiền nhàn rỗi hoặc tiền vay (nhưng khả năng trả nợ tiền vay tốt) đầu tư vào lĩnh vực này.
Đại diện Tổng cục Thuế cho rằng việc tính toán các khoản chi phí cho hoạt động cho thuê bất động sản là không phù hợp vì phải tính đến các yếu tố sở hữu bất động sản lâu dài, bất động sản có thể tăng giá trong tương lai.
Đối với hoạt động cho thuê thông thường, chỉ có thể tính đến các chi phí mang tính phát sinh thường xuyên trong thời gian cho thuê hoặc để phục vụ cho mục đích cho thuê (gồm chi phí bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa, lắp đặt thiết bị nội thất...). Để xử lý vấn đề không được trừ chi phí hợp lý như nêu trên của cá nhân cho thuê bất động sản, chính sách thuế đã xây dựng mức thuế của cá nhân thấp hơn so với doanh nghiệp.
Cụ thể, thuế GTGT của cá nhân là 5% trong khi của doanh nghiệp là 10%; thuế TNCN là 5% trong khi thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% trên chênh lệch (doanh thu trừ chi phí).
Tuy nhiên, bà Lan khẳng định Tổng cục Thuế lắng nghe, ghi nhận ý kiến của các chuyên gia và đang nghiên cứu để đề xuất với Bộ Tài chính xem xét báo cáo Chính phủ trình Quốc hội nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế trong chương trình sửa Luật Thuế GTGT trong thời gian tới để phù hợp với tình hình thực tế.