Khi một phụ nữ trẻ người Việt đến Nhật Bản theo chế độ tu nghiệp sinh kỹ thuật phát hiện mình có thai, cô có hai lựa chọn: phá thai hoặc quay về Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu về nhà, cô sẽ không thể trả lại 10.000 USD cho công ty tuyển dụng lao động. "Cô ấy cần ở lại để trả nợ", Shiro Sasaki, tổng thư ký của Liên minh Công nhân Zentoitsu, nói với Reuters và cho biết thêm rằng tình trạng này khá phổ biến.
Sang Nhật Bản với hy vọng có được mức lương cao hơn nhưng bị đè nặng bởi các khoản nợ, lao động trẻ người Việt sẽ trở thành một trong những nhóm đối tượng bị ảnh nhiều nhất bởi chính sách tuyển dụng thêm lao động bắt đầu thi hành vào tháng 4 tới.
Giải pháp tạm thời
"Lượng tu nghiệp sinh từ Trung Quốc đã giảm dần khi mức lương trong nước tăng lên đi cùng với sự phát triển kinh tế. Trong khi đó ở Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ có học vấn vẫn ở mức cao", Futaba Ishizuka, nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển, nói với Reuters.
Nhật Bản đưa vào thực hiện chương trình đào tạo dành cho người nước ngoài từ năm 1993 nhằm mục đích chuyển giao kỹ năng cho các quốc gia đang phát triển. Tu nghiệp sinh được cho phép ở lại nước này tới 5 năm nhưng chương trình bị lên án là dạng thức nhập khẩu lao động giá trẻ “trá hình”. Một số thực tập sinh đã bỏ vị trí do lương thấp và điều kiện lao động tồi tệ như làm quá giờ, bạo lực và quấy rối tình dục.
Nhật Bản đưa vào thực hiện chương trình tu nghiệp sinh nước ngoài từ năm 1993 với nhiều ngành nghề. Ảnh: Nikkei Asian Review. |
Các vấn đề như vậy sẽ tiếp tục tồn tại và có thể trở nên tệ hơn nếu chính sách mới được thi hành. Chính sách này nhằm thu hút thêm nhiều lao động chân tay tới Nhật để giảm bớt tình trạng thiếu hụt từ nhiều năm nay.
Thủ tướng Shinzo Abe kiên quyết khẳng định rằng luật mới ban hành vào tháng 12/2018 không cấu thành "chính sách nhập cư". Điều này gây lo ngại cho các nhà phê bình.
"Trên thực tế, Nhật Bản đã là quốc gia của người nhập cư. Tuy nhiên, do chính phủ cho rằng đó không phải là 'chính sách nhập cư' và người lao động sẽ không ở lại, vậy nên chính phủ chỉ thực hiện các biện pháp tạm thời. Nhu cầu của xã hội và nhu cầu của người lao động vì thế không được đáp ứng", Akira Hatate, Giám đốc tổ chức Liên minh Tự do Dân sự Nhật Bản, nhận định.
Vấn nạn kéo dài dai dẳng
Reuters dẫn lời các chuyên gia cho biết tình trạng lạm dụng lao động đã kéo dài dai dẳng kể từ khi chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật bắt đầu vào năm 1993. Các vấn đề này được đưa ra ánh sáng vào năm 2018 qua cuộc tranh luận xung quanh vấn đề luật lao động mới.
Trong số các trường hợp nghiêm trọng nhất, có 4 công ty sử dụng tu nghiệp sinh làm công việc khử nhiễm phóng xạ tại các khu vực bị ảnh hưởng sau thảm họa hạt nhân Fukushima xảy ra vào tháng 3/2011. Hai công ty cũng bị cáo buộc trả lương không thỏa đáng và bị cấm sử dụng tu nghiệp sinh trong 5 năm. Các công ty khác đã bị Bộ Tư pháp Nhật cảnh báo.
Nam lao động 24 tuổi người Việt Nam là một trong số những tu nghiệp sinh phải đến dọn dẹp khu vực thảm họa hạt nhân Fukushima. Ảnh: Nikkei Asian Review. |
Một cuộc khảo sát của Bộ Lao động Nhật Bản được công bố vào tháng 6/2018 cho thấy hơn 70% người sử dụng tu nghiệp sinh đã vi phạm quy định, phổ biến nhất là làm việc quá giờ và vấn đề an toàn lao động. Nhìn chung, 66% các nhà tuyển dụng tại Nhật cũng vi phạm những quy định này.
Tổ chức vì tu nghiệp sinh kỹ thuật (OTIT), được thành lập vào năm 2017, mới đây đưa ra lời nhắc cho các nhà tuyển dụng rằng tu nghiệp sinh được luật lao động Nhật Bản bảo vệ. Theo luật, bên sử dụng lao động không được phép đối xử không công bằng đối với người lao động mang thai.
Điều kiện lao động khắc nghiệt đã khiến hơn 7.000 tu nghiệp sinh bỏ việc trong năm 2017. Gần một nửa trong số đó là từ Việt Nam. Nhiều người bị các bên môi giới lao động mờ ám hứa hẹn có thể làm giả giấy tờ để có công việc với mức lương cao hơn.
Do các tu nghiệp sinh không được phép chuyển việc nên bỏ việc cũng đồng nghĩa với mất thị thực hợp pháp. Một số ít đến các nhà tạm trú do các nhóm phi lợi nhuận điều hành hoặc nhận được sự giúp đỡ từ công đoàn. Trong khi đó nhiều người tham gia vào thị trường lao động tại chợ đen.
"Tình hình ở đây hoàn toàn khác với những gì họ được nghe miêu tả ở quê nhà. Họ phải gánh những khoản nợ không thể trả được nếu về quê làm ăn, vì vậy lựa chọn duy nhất là chạy trốn vào chợ đen để làm việc", ông Shigeru Yamashita, giám đốc điều hành Hiệp hội tương trợ Việt Nam tại Nhật Bản, cho biết.
Tình trạng thiếu lao động cấp bách
Luật mới sẽ cho phép khoảng 345.000 lao động phổ thông vào Nhật Bản trong vòng 5 năm, với công việc thuộc 14 lĩnh vực như xây dựng và điều dưỡng. Đây là một trong những giải pháp cho tình trạng thiếu hụt lao động đang trở nên cấp bách tại nước này. "Người lao động có tay nghề cao" được quy định trong danh mục đính kèm có thể ở lại tới 5 năm nhưng không được mang theo gia đình.
Điều dưỡng viên người Việt làm việc ở Tokyo. Ảnh: Nikkei Asian Review. |
Loại thị thực thứ hai - hiện chỉ giới hạn trong ngành công nghiệp xây dựng và đóng tàu - cho phép công nhân mang theo gia đình và đủ điều kiện ở lại lâu hơn.
Nguyễn Thị Thúy Phương, 29 tuổi, để lại chồng và con nhỏ đang học tiểu học ở Việt Nam để làm tu nghiệp sinh trong một nhà máy dệt kim ở thành phố Mitsuke, miền Bắc Nhật Bản.
Sau khi số lượng lớn lao động ngành dệt may bị sa thải vì vi phạm quy định chương trình tu nghiệp sinh, ngành này hiện không được đưa vào chương trình thị thực mới. Giờ đây, Thúy Phương ao ước có thể đưa gia đình sang Nhật và ở lại lâu hơn.
"Cuộc sống ở Nhật rất tiện nghi và không khí trong lành", Phương nói với Reuters bằng tiếng Nhật trong giờ nghỉ giải lao.
Các cơ quan và cá nhân kinh doanh có thể đăng ký để trở thành bên trung gian giữa nhà tuyển dụng và doanh nghiệp sử dụng lao động. Tuy nhiên, các "tổ chức hỗ trợ đăng ký" này sẽ không cần giấy phép hoạt động.
Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh sẽ giám sát người lao động nước ngoài mới; cục di trú của Bộ Lao động Nhật Bản sẽ trở thành một cơ quan riêng biệt với quyền hạn lớn hơn vào ngày 1/4.
Hôm 15/3, Bộ Tư pháp Nhật đã ban hành các quy tắc mới cho hệ thống tuyển dụng lao động này, trong đó có yêu cầu các doanh nghiệp phải trả lương cho lao động nước ngoài ngang bằng với lao động Nhật Bản.
Tuy nhiên, ông Sasaki cho biết mối quan tâm lớn nhất của cơ quan này là tình trạng di trú, không phải vấn đề điều kiện lao động.
Kịch bản xấu có thể lặp lại
Reuters dẫn thông tin của tổ chức Liên minh Tự do Dân sự Nhật Bản Hatate cho biết một số công ty Nhật hiện cũng cảnh giác với nguy cơ mất nhà đầu tư nếu bên cung cấp lao động họ hợp tác vi phạm quyền lợi của công nhân.
Tu nghiệp sinh Việt Nam làm việc tại một nhà máy dệt may ở Mitsuke, Nhật Bản, ngày 26/2. Ảnh: Reuters. |
Chính quyền địa phương cũng lo ngại việc luật mới được đưa vào thi hành quá nhanh có thể gây ra tình trạng người lao động nước ngoài không được hỗ trợ đầy đủ.
"Nếu không có một khuôn khổ thích hợp để tiếp nhận người lao động nước ngoài mà chỉ coi họ hoàn toàn là cách để bù đắp sự thiếu hụt lao động trong nước, thì chắc chắn sẽ có những vấn đề lớn", ông Cameron Yuji Kuroiwa, thống đốc tỉnh Kanagawa gần Tokyo, nói với Reuters.
Takashi Takayama, tên tiếng Việt là Cao Sơn Quý, đã sang Nhật Bản tị nạn vào năm 1979. Từng chứng kiến người lao động nước ngoài bị sa thải sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, ông lo ngại một kịch bản tương tự có thể xảy ra khi nhu cầu lao động giảm sau Thế vận hội Tokyo 2020.
"Khi Thế vận hội kết thúc, tôi nghĩ một sự kiện bi thảm sẽ xảy ra. Tôi không muốn thấy điều đó", ông Takayama nói trong lễ đón năm mới của người Việt tại nhà thờ Công giáo ở ngoại ô Tokyo.