Theo sách Đại nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Viện sử học dịch, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB Thuận Hóa 2006), tập 1, quyển 1, phần Kinh sư, có viết:
"Miếu Lịch đại đế vương ở địa phận xã Phú Xuân phía ngoài Kinh thành, hướng về phía nam, dựng từ năm Minh Mạng thứ 4 (1823)".
Bộ sử Đại Nam thực lục viết về việc dựng miếu, trong đó vua Minh Mạng dụ Hộ bộ rằng: “Trẫm tham xét điển lễ, thấy từ xưa các đế vương đều có miếu thờ. Nay nhân có việc đi Bắc tuần, những nơi có thờ đế vương đời trước, không nơi nào không sai quan đến tế. Nhưng từ triều Lê trở về trước thì đều là thờ cúng trong dân gian, miếu vũ do nhà nước tế thì chưa từng xây dựng. Nghĩ rằng vua các triều trước thay nhau làm việc đều có công đức với dân, lòng trẫm rất kính mộ, việc làm miếu thờ nên theo nghĩa mà làm. Vậy bàn sai chọn đất dựng miếu để làm nơi cúng tế”.
Miếu Lịch đại đế vương. Ký họa bút sắt của Nguyễn Thứ. |
Miếu xây xong gồm có nhà chính 5 gian. Do triều đại phong kiến Việt Nam theo thể chế phong kiến Trung Quốc, nên miếu thờ Tam Hoàng, Ngũ Đế của Trung Quốc, trong đó gian chính giữa của miếu thờ Phục Hy Thị - vì huyền sử Việt Nam cũng coi Phục Hy là thủy tổ của các dân tộc Bách Việt, phía trái ở vị trí thứ nhất thờ Thần Nông Thị, phía phải vị trí thứ nhất thờ Hoàng Đế.
Tiếp theo, miếu thờ các vị vua khởi đầu Ngũ Đế của Trung Quốc, gồm Đế Nghiêu ở vị trí thứ hai phía trái, Đế Thuấn ở vị trí thứ hai gian bên phải. Vị trí thứ ba phía trái thờ Hạ Vũ Vương, vị trí thứ ba bên phải thờ Thang Thương Vương. Vị trí thứ tư phía trái thờ Chu Văn Vương, còn phía phải thờ Chu Vũ Vương.
Các vua thủy tổ nước Việt được thờ ở gian thứ nhất bên trái, gồm Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp, vị Thái thú Giao Chỉ thời nhà Hán, có công giáo hóa nhân dân), Đinh Tiên Hoàng Đế.
Gian thứ nhất phía phải thờ Lê Đại Hành, Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, Lê Nhân Tông.
Gian thứ nhì phía trái thờ các vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông. Gian thứ nhì phía phải thờ Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, tiếp đến là các vua Lê khởi đầu thời kỳ Lê trung hưng gồm Lê Trang Tông, Lê Anh Tông.
Nguyên nhân triều đình nhà Nguyễn lại thờ những vua này, có thể thấy trong lời tâu của bộ Lễ lên vua Minh Mạng, được chép trong Đại Nam thực lục như sau:
"Xét sách Việt sử ngoại kỷ biên niên thì Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương thực là Thuỷ tổ của nước Việt ta. Sau từ việc nảy nỏ móng rùa thất lợi và việc cột đồng chia cương giới, cho đến những cuộc Nam - Bắc phân tranh thì đều không phải là chính thống của nước Việt ta. Trong khoảng đó có Mai Hắc Đế và Bố Cái Vương nổi dậy mà công nghiệp chưa thành. Thế thì từ ngoại kỷ về trước phải lấy các vị sáng thuỷ mà thờ.
Từ Đinh về sau thì mối giềng mới rõ. Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Lê Thái Tổ, thừa vận lần lượt nổi lên, đều là vua dựng nghiệp một đời. Trong khoảng ấy, anh chúa trung hưng như Trần Nhân Tông ba lần đánh bại quân Nguyên, hai lần khôi phục xã tắc, Lê Thánh Tông lập ra chế độ, mở rộng bờ cõi, công nghiệp rạng rỡ vang ở bên tai, đều nên liệt vào điển thờ. Ngoài ra các vua đều có miếu riêng, tưởng không nên thờ cả vào đấy”.
Đình thần bàn lại, cho rằng: “Nước ta thông thi thư, quen lễ nhạc, làm nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ Vương. Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành bắt Chế Củ mới có đất toàn phủ Quảng Bình; Lý Nhân Tông phía Bắc đánh lui quân Tống lấy lại hết sáu động Quảng Nguyên; Trần Anh Tông phía Nam bình giặc Chiêm, mà có hai châu Thuận Hoá; Lê Trang Tông do Triệu Tổ ta (tức Nguyễn Kim) tôn lập, dựng lại cơ đồ nhà Lê; Anh Tông trao cờ trấn tiết cho Thái Tổ ta vỗ về miền Nam, cũng nên cùng thờ ở miếu”.
Theo quy chế, hằng năm triều đình tổ chức tế miếu Lịch đại đế vương vào tháng trọng xuân (tháng 2 âm lịch), vào ngày tận tháng.
Đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829), triều đình bỏ việc thờ vua Lê Anh Tông, có lẽ do thấy công lao của nhà vua không lớn, và đổi thờ Sĩ Vương sang Văn Miếu.
Phía đông và tây miếu dựng Đông vu và Tây vu, mỗi vu đặt 5 án, thờ danh thần các triều. Phía đông thờ các danh thần Trung Quốc gồm Phong Hậu, Cao Dao, Long Bá Ích, Phó Duyệt, Lã Vọng, Thiệu Hổ, cùng các danh thần Việt Nam gồm Nguyễn Bặc, Lê Phụng Hiểu, Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, Trương Hán Siêu, Lê Niệm, Lê Xí, Hoàng Đình Ái.
Phía Tây thờ các danh thần Trung Quốc Lực Mục, Hậu Quỳ, Bá Di, Y Doãn, Chu Công Đán, Thiệu Công Thích, Phương Thú, Lê Hiến, cùng các danh thần Việt Nam là Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Đinh Liệt, Lê Khôi, Trịnh Duy Thuân, Phùng Khắc Khoan.
Ở phía trái miếu Lịch đại đế vương, có một miếu riêng thờ vua Lê Thánh Tông, vị vua có công mở rộng bờ cõi về phía Nam. Sử quan nhà Nguyễn xác định miếu thờ Lê Thánh Tông có từ thời các chúa Nguyễn, sau nhiều năm chiến tranh bị hư hại. Đến năm Gia Long thứ 8 (1809) được dựng lại. Năm 1924, thời vua Khải Định, do miếu bị đổ nát, triều Nguyễn đã cho dời bài vị Lê Thánh Tông qua thờ chung tại miếu Lịch Đại.
Miếu Lịch Đại đế vương nằm ở gần chùa Báo Quốc. Do ảnh hưởng của chiến tranh, miếu đã đổ nát, hiện chỉ còn sót lại một ít di tích. Vì người dân Huế thường đọc là Lịch Đợi, nên tại khu vực này sau có thôn Lịch Đợi, dốc Lịch Đợi và cả đường Lịch Đợi.