Từ thời vua Tự Đức, người đương thời đã làm đôi câu đối: “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”, tức là văn như hai ông Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì đời tiền Hán cũng phải chịu, thơ như hai ông Tùng Thiện công và Tuy Lý công thì thơ đời thịnh Đường không còn đáng kể.
Nhà thơ và nhà sưu tầm sách nổi tiếng
Hai ông Tùng Thiện công Miên Thẩm và Tuy Lý công Miên Trinh sau này đều được phong vương, nhưng ông Tùng Thiện chỉ được truy phong sau khi mất, còn ông Tuy Lý được phong vương vào đời vua Hiệp Hòa (1883), khi ông còn sống.
Tùng Thiện vương Miên Thẩm không chỉ là nhà thơ nổi tiếng dưới thời Nguyễn, mà còn là nhà sưu tập sách quý. |
Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1819-1870) là con thứ 10 của vua Minh Mạng. Theo sách Đại Nam liệt truyện, (Viện sử học Việt Nam dịch, NXB Thuận Hóa, 2006), quyển Chính biên, Nhị tập, phần Truyện các hoàng tử thì thuở nhỏ ông có nhiều bệnh tật, có đạo sĩ tên là Vân trông thấy bảo rằng: Đây là sao Thái Bạch kim tinh giáng sinh, làm lễ tiễn thì khỏi. Hoàng gia cho làm theo, quả nhiên đúng như lời nói.
Năm Minh Mạng thứ 3, ông mới 4 tuổi nhưng đã rất đĩnh ngộ, lúc đầu theo học nữ sư ở trong cung, dạy học sách hiếu kinh. Năm 7 tuổi đến học ở Dưỡng Chính đường, ông chăm học, không chơi đùa, gấp sách đọc có khi cả trăm tờ giấy.
Một hôm ông vào hầu mẹ là Thục tần Nguyễn Thị Bửu, thấy trên án có chiếc quạt viết bài thơ Đường thể ngũ ngôn, trong đó có mấy chữ chưa hiểu lắm, mà đọc lên thấy vui miệng, ông bèn cố xin cho được cái quạt ấy.
Hôm sau ông đem hỏi viên giảng tập rằng: Đấy là thơ gì? Viên giảng tập đem kiến thức của mình để trả lời. Ông bèn hỏi nghĩa bài thơ ấy, lại xin dạy cho luật phép bằng trắc rồi từ đấy có làm bài nào cũng hợp phép thơ, thể hiện tài năng từ khi mới bảy, tám tuổi.
Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), mùa xuân nhà vua đi tế Giao, ông mới có 9 tuổi, đi theo hầu vua cha, có làm bài thơ tế Nam Giao, rất được tán thưởng. Sử nhà Nguyễn ca ngợi là khi lớn lên, ra ngoài học tập, không sách gì ông không thông hiểu, lại có tính mê sơn thủy, hàng ngày cùng các danh sĩ giao du, kiến văn ngày càng rộng, bắt đầu làm thành tập thơ.
Năm Minh Mạng thứ 16, vua thăm đàn tế Giao, trong ngoài tường cấm đàn ấy đều trồng thông, ông có làm bài thơ vịnh cây thông ở trai cung. Khi theo vua lên núi Ngự Bình, vua sai làm bài thơ, có nhiều câu hay, được vua khen ngợi.
Năm Minh Mạng thứ 20, ông được phong làm Tùng quốc công, cho lập phủ ở phường Liêm Năng, bên cạnh phường ấy tiếp giáp với Tĩnh Phố, là phủ của Tuy Lý công Miên Trinh, em trai khác mẹ với ông. Ông cùng Tuy Lý công ngày ngày vui thưởng xướng họa. Người đương thời tôn hai ông là hai nhà thơ nổi tiếng nhất đương thời.
Đến năm Thiệu Trị thứ 2, vua đi tuần ra miền Bắc, ông theo hầu, có làm được tập thơ Bắc hành. Sau này, khi lên núi Nam Sơn thi bắn, hoặc lên chơi núi Thúy Vân, ông đều có thơ cả.
Vua Tự Đức vốn tin yêu ông, thường sai biên chép thơ chọn lọc của các đời, chấm và phê bình để tiến lên cho vua xem.
Năm vua Tự Đức mới lên ngôi, Khâm sứ nhà Thanh là Lao Sùng Quang vốn đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ, đến kinh đô Phú Xuân làm lễ tấn phong. Theo sách Tùng Thiện vương (Ưng Trình và Bửu Dưỡng biên soạn, xuất bản năm 1970), trước ngày Lao Sùng Quang đến Huế, vua Tự Đức đã sai Nội các và Hàn Lâm viện tuyển chọn những sáng tác văn chương hay nhất của các danh sĩ triều Nguyễn như: vua Tự Đức, Miên Thẩm, Miên Trinh, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Phan Thanh Giản, Hà Tôn Quyền… in thành tập Phong nhã thống biên, vừa làm “quà” nghênh tiếp Lao Sùng Quang, vừa để khoe văn tài của học giới nước Việt bấy giờ.
Lao Sùng Quang đến Phú Xuân, sau khi đọc tặng phẩm Phong nhã thống biên, lấy làm nể phục các văn nhân, danh sĩ của triều Nguyễn, đặc biệt là với Tùng quốc công Miên Thẩm, người có nhiều thơ văn được tuyển in văn tập này.
Vì thế, Lao Sùng Quang đã thân hành tìm đến Ký Thưởng Viên để đàm đạo văn chương, thế sự với Tùng quốc công. Lao Sùng Quang đã viết hai câu thơ ngợi khen văn tài của ông:
“Độc đáo bạch âu hoàng diệp cú.
Mãn hoài tiêu sắt đái thu hàn”.
(Ưng Trình và Bửu Dưỡng dịch thơ là:
Đọc đến câu “Bạch âu hoàng diệp”
Cả người ớn lạnh với hơi thu)
Tùng quốc công cùng giao du với Sùng Quang và xướng họa thơ thù tiếp. Sùng Quang rất khen ngợi, yêu cầu ông cho xem bản thảo thơ làm ra.
Ông đem tập thơ Thương Sơn cho xem Lao Sùng Quang và vị sứ thần đã viết bài tựa cho tập thơ này. Do đó, sử nhà Nguyễn chép rằng văn chương của ông lại được triều đình Trung Hoa quý trọng mà hâm mộ, cũng không phải nói quá.
Mở thư viện, lập thi xã và viết sách
Sách Tùng Thiện vương cũng viết, là một nhà thơ, Tùng quốc công luôn muốn sống nơi thôn dã để tiện bề giao lưu thi phú với các tao nhân, mặc khách bên ngoài Kinh thành. Do đó khi vua Tự Đức lên ngôi, vì có mẹ tuổi già, ông xin làm nhà riêng, ở bên dòng sông Lợi Nông (sông An Cựu), tự tay kiến thiết, xây dựng, đắp núi đào hồ, gọi là Tiêu Viên và rước mẹ là bà Thục tần Nguyễn Thị Bảo từ trong Đại Nội về đây để chăm sóc, phụng dưỡng.
Khi mẹ mất, ông dựng lều tranh cạnh mộ mẹ cư tang ba năm. Mãn tang, ông được phong tước Tùng Thiện công.
Trong Tiêu Viên, ông dựng Ký Thưởng Viên để làm nơi ngâm vịnh thơ văn cùng là nơi tiếp khách văn chương thi phú và Mặc Vân sào để chứa sách, cho mọi người đến đọc.
Ông cùng Tuy Lý công lập ra Mặc Vân thi xã, tập hợp được nhiều danh sĩ đương thời, trong đó có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đăng Giai… và nhiều hoàng thân quý tộc, như Thọ Xuân vương Miên Định, Hàm Thuận quận công Miên Thủ, Tương An quận vương Miên Bửu, Hoằng Hóa quận vương Miên Triện… Thi xã hoạt động sôi động, có nhiều áng thơ hay.
Tùng Thiện công là người thông minh ham học, ngoài sách vở ra không thích gì. Nghe nói có sách hay, ông bỏ hết tiền ra mua. Đọc nhiều sách nên học vấn ông sâu rộng, lời hay ý đẹp, rất giỏi về thơ.
Năm Tự Đức thứ 23, ông mất khi 52 tuổi, vua thương tiếc, cho nghỉ chầu 3 ngày để tưởng nhớ, ban cho gia đình gấm lụa, tiền vải, quan tài và ngân tiền, lại thân chế văn tế sai Tuy Lý công đến tế, cho rượu tế, ban cho tên thụy là Văn Nhã. Ngày an táng ông, vua sai Hiệp lĩnh Thị vệ là Hồ Văn Hiển đi đưa đám. Đến năm Tự Đức thứ 31, vua truy tặng ông tước Quận vương. Đến đời vua Bảo Đại, ông mới được truy phong lên tước vương.
Tùng Thiện vương Miên Thẩm đã sáng tác được 14 tập thơ, trong đó có 7 tập đã được khắc in như Quảng Khê thi tập, Lương Khê thi tập, Mạn Viên thi tập, Hân Nhiên thi tập, Phạm Tập Lâm thi tập, Cống thảo viên thi tập, Tam cao sĩ tập.
Các bộ sách ông biên soạn bao gồm nhiều lĩnh vực, từ triết học, lịch sử, âm nhạc, văn chương... chứng minh ông là một nhà nghiên cứu có hiểu biết sâu rộng.
Các nhà nghiên cứu văn học đánh giá, chỉ với riêng trong sự nghiệp văn chương, với tác phẩm đồ sộ của ông là Thương Sơn thi tập, Miên Thẩm cũng đã ở vào hàng các nhà thơ chữ Hán tiêu biểu trong hoàng tộc Nguyễn vào thế kỷ 19.