Bộ GD&ĐT vừa ban hành Thông tư 22 về đánh giá học sinh THCS và THPT.
Hiệu lực thi hành được chia theo năm. Cụ thể, từ năm 2021-2022, thông tư được áp dụng đối với lớp 6. Lớp 7 và lớp 10 được đánh giá theo thông tư này từ năm học 2022-2023, lớp 8 và 11 từ năm học 2023-2023 và lớp 9, 12 từ năm học 2024-2025.
Hai hình thức đánh giá
Theo Thông tư 22, với các môn Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mỹ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp được đánh giá bằng hình thức nhận xét.
Ở các môn học khác, giáo viên đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số.
Với hình thức nhận xét, giáo viên dùng hình thức nói hoặc viết để nhận xét việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh; nhận xét sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của học sinh trong quá trình rèn luyện và học tập; đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.
Học sinh dùng hình thức nói hoặc viết để tự nhận xét về việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập, sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của bản thân.
Cha mẹ học sinh, cơ quan, tổ chức, cá nhân có tham gia vào quá trình giáo dục học sinh cung cấp thông tin phản hồi về việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh.
Khi đánh giá bằng điểm số, giáo viên dùng điểm số để đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.
Việc đánh giá thường xuyên sẽ thực hiện thông qua nhiều hình thức đánh giá như vấn đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí nghiệm, sản phẩm học tập.
Với một môn học, học sinh được kiểm tra, đánh giá nhiều lần, trong đó chọn một số lần kiểm tra, đánh giá phù hợp với tiến trình dạy học để sử dụng trong việc đánh giá kết quả học tập môn học.
Với môn học đánh giá bằng nhận xét, mỗi học kỳ chọn 2 lần. Với môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số, giáo viên chọn điểm đánh giá thường xuyên mỗi kỳ theo quy tắc môn học có 35 tiết/năm chọn 2 điểm, trên 35 đến 70 tiết/năm chọn 3 điểm, trên 70 tiết/năm chọn 4 điểm.
Đánh giá định kỳ gồm giữa kỳ và cuối kỳ, được thực hiện thông qua bài kiểm tra trên giấy hoặc máy tính, bài thực hành, dự án học tập. Học sinh trung học sẽ có 4 bài kiểm tra định kỳ mỗi môn học.
4 mức đánh giá kết quả học tập, rèn luyện
Kết quả rèn luyện của học sinh trong từng học kỳ và cả năm học được đánh giá theo một trong 4 mức Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt.
Với kết quả học tập, ở những môn đánh giá bằng nhận xét, mỗi môn được đánh giá Đạt hoặc Chưa đạt. Ở mỗi học kỳ, học sinh nhận mức Đạt nếu ở môn đó, học sinh có đủ số lần kiểm tra, đánh giá theo quy định và đều Đạt. Còn lại, học sinh bị đánh giá Chưa đạt.
Cả năm học, sinh được đánh giá Đạt nếu kết quả học kỳ II của môn đó là Đạt.
Với những môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số, điểm trung bình môn học kỳ và cả năm được tính theo công thức:
Kết quả học tập ở những môn này được đánh giá theo một trong 4 mức Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt.
Học sinh sẽ được xếp mức Tốt nếu tất cả môn đánh giá bằng nhận xét phải ở mức Đạt; tất cả môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số phải đạt mức 6,5 trở lên, trong đó có ít nhất 6 môn đạt mức 8 trở lên.
Như vậy, các môn đều được đánh giá công bằng như nhau, không có môn chính, môn phụ.
Học sinh xếp mức Khá khi tất cả môn đánh giá bằng nhận xét phải ở mức Đạt; tất cả môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số phải đạt mức 5 trở lên, trong đó có ít nhất 6 môn đạt mức 6,5 trở lên.
Học sinh được xếp mức Đạt khi có nhiều nhất 1 môn học đánh giá bằng nhận xét ở mức Chưa đạt; ít nhất 6 môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số từ 5 trở lên, không có môn nào dưới 3,5 điểm.
Các trường hợp còn lại xếp mức Chưa đạt.
Học sinh được lên lớp hoặc công nhận hoàn thành chương trình THCS, THPT khi kết quả rèn luyện, học tập cả năm đạt mức Đạt trở lên và nghỉ học không quá 45 buổi/năm học.
Học sinh nhận danh hiệu Xuất sắc nếu kết quả học tập, rèn luyện cả năm đạt mức Tốt, có ít nhất 6 môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số có điểm trung bình môn từ 9 trở lên.
Học sinh nhận danh hiệu Giỏi nếu kết quả học tập, rèn luyện cả năm đạt mức Tốt.